70=CÂY KIM NGÂN MÀU ĐỎ
Cây kim ngân màu đỏ
Trong
thung lũng nở hoa
Giống
như cô giá nhỏ
Đang
nở nụ cười hoa.
Vẻ
say đắm thiết tha
Một
con chim nhỏ ghé
Bên
hoa để chuyện trò.
Cô
giá tỉnh giấc hoa
Mặc
áo len màu tráng
Cô
chạy ra thung lũng
Cô
đi dạo trong rừng.
Chàng
Cô-dắc trẻ trung
Đến
gặp cùng người đẹp
Chàng
Cô-dắc mắt đen
Chàng
hôn cô tha thiết
Họ
bên nhau, sánh bước
Cùng
đi dạo trong rừng
Cả
hai cùng hạnh phúc.
Như
hai con chim non
Đến
bên cây kim ngân
Họ
cùng nhau ngồi xuống
Trao
nhau những nụ hôn.
Đấy
có phải thiên đường
Mà
hai người mong đợi?
Thiên
đường ở trong tim
Trong
nhà thờ của Chúa
Khi
đôi mắt nhắm lại
Sẽ
chẳng thấy thiên đường.
Tôi
biết nói gì hơn
Khi
nhìn vào thực tế
Chỉ
mình tôi đau khổ
Còn
cha đạo, người dân
Đâu
việc gì đến họ.
[1849]
70= Зацвіла в
долині
Зацвіла в долині
Червона калина,
Ніби засміялась
Дівчина-дитина.
Любо, любо стало,
Пташечка зраділа
І защебетала.
Почула дівчина,
І в білій свитині
З біленької хати
Вийшла погуляти
У гай на долину.
І вийшов до неї
З зеленого гаю
Козак молоденький;
Цілує, вітає,
І йдуть по долині
І йдучи співають.
Як діточок двоє,
Під тую калину
Прийшли, посідали
І поціловались.
Якого ж ми раю
У Бога благаєм?
Рай у серце лізе,
А ми в церкву лізем,
Заплющивши очі, —
Такого не хочем.
Сказав би я правду,
Та що з неї буде?
Самому завадить,
А попам та людям
Однаково буде.
[Перша половина
1849, Косарал]
71=DÙ Ở CHỐN THIÊN ĐƯỜNG
Dù ở trong những chốn thiên đường
Cũng không có cảnh đẹp nào hơn thế
Không có gì hạnh phúc thiêng liêng hơn
Đứa
con nhỏ trong vòng tay người mẹ.
Đôi
khi tôi bỗng chợt nhìn
Chiêm
ngưỡng mẹ, và một nỗi buồn
Một
nỗi buồn trong lòng tôi dâng ngập
Tôi
thấy buồn và tôi thương xót
Đứng
trước mẹ tôi cúi mình
Như
trước Mẹ Maria thần thánh
Ôi
Maria – Đức mẹ Đồng trinh
Người
đã mang Chúa đến trần gian.
Và
giờ đây tất cả dễ thương
Mẹ
không ngủ hằng đêm
Mẹ
canh từng giấc ngủ
Mẹ
chờ ánh bình minh
Để
sáng ra lại cúi xuống bên con:
“Ôi,
con trai yêu của mẹ”
Mẹ
cầu nguyện Chúa
Mẹ
lo lắng cho con
Rồi
mẹ bước ra đường
Như
nữ hoàng bước trên đường phố
Trước
những người không xa lạ
Mẹ
khoe đứa con trai của mình
Đứa
con của mẹ quí hơn tất cả
Và
khi ai đó nhìn sang
Thấy
không gì hạnh phúc hơn thế nữa
Mẹ
bế trên tay bé Ivan
Và
mẹ nghĩ rằng cả làng
Đang
nhìn thằng con của mẹ
Còn
gì kỳ diệu hơn thế nữa
Tất
cả đều ở đứa con
Mẹ
hạnh phúc vô cùng…
Năm
tháng trôi qua
Những
đứa con lớn cất bước đi xa
Đi
về miền xuôi miền ngược
Kẻ
lo làm ăn, kẻ đi trận mạc
Và
mẹ lại một mình
Ngôi
nhà lại trống trơn
Áo
mẹ trên vai đã rách
Bếp
lửa không còn tí tách
Rồi
những đêm mùa đông
Mẹ
không thể bước dậy khỏi giường
Nhưng
tất cả nghĩ suy của mẹ
Đều
hướng về con, mẹ cầu Chúa
Ban
phước lành cho những đứa con.
Còn
em
Là
người mẹ chịu cực hình
Và
em khóc lóc hằng đêm
Em
đi từ trong làng ra đồng
Đứa
con em đem che giấu
Kẻo
con chim non hiểu thấu
Sẽ
thì thầm:
“Cô
gái mang tội lỗi của mình”.
Thật
bất hạnh cho em!
Thế
đâu rồi sắc đẹp ngày xanh
Vẻ
đẹp làm người ta kinh ngạc
Dù
chỉ một lần gặp mặt?
Tất
cả đã trao hết cho con
Mẹ
nhận về đau khổ
Và
người mẹ một mình
Bước
đi trong nhục nhã.
Ai
ai cũng xa lánh em
Như
người bệnh hủi bệnh phong
Còn
đứa con của em bé nhỏ
Đâu
thấu hiểu được cõi lòng
Và
khi nó thì thầm
Khi
đứa con em thỏ thẻ
Lời
gọi Mẹ.
Lời
vĩ đại và thiêng liêng!
Khi
con lớn em sẽ kể với con
Về
một thời thiếu nữ
Và
con nhà địa chủ
Đã
dối lừa em.
Và
sẽ không lâu. Vì rằng
Thằng
con của em sẽ lớn
Và
nó sẽ theo nhập bọn
Với
những kẻ hát rong.
Và
nó sẽ bỏ lại em
Ở
nhà trêu đùa với chó
Để
mặc cho em nguyền rủa
Rằng
tại sao đã sinh con
Tại
sao đã khổ đau vất vả
Đã
yêu quí nó hết mình.
Và
em sẽ vẫn yêu cho đến một ngày nào
Ngày
nào mà em hãy còn chưa chết
Giữa
những con chó, giữa trời giá rét
Và
ở một nơi nào đó bên bờ rào.
[1849]
71= У нашім раї
на землі
У нашім раї на землі
Нічого кращого немає,
Як тая мати молодая
З своїм дитяточком малим.
Буває, іноді дивлюся,
Дивуюсь дивом, і печаль
Охватить душу; стане жаль
Мені її, і зажурюся,
І перед нею помолюся,
Мов перед образом святим
Тієї Матері святої,
Що в мир наш Бога принесла...
Тепер їй любо, любо жити.
Вона серед ночі встає,
І стереже добро своє,
І дожидає того світу,
Щоб знов на його надивитись,
Наговоритись. — Це моє!
Моє! — І дивиться на його,
І молиться за його Богу,
І йде на улицю гулять
Гордіше самої цариці.
Щоб людям, бачте, показать
Своє добро. — А подивіться!
Моє найкраще над всіми! —
І ненароком інший гляне.
Весела, рада, Боже мій!
Несе додому свого Йвана.
І їй здається, все село
Весь день дивилося на його,
Що тілько й дива там було,
А більше не було нічого.
Щасливая!..
Літа минають.
Потроху діти виростають,
І виросли, і розійшлись
На заробітки, в москалі.
І ти осталася, небого.
І не осталося нікого
З тобою дома. Наготи
Старої нічим одягти
І витопить зимою хату.
А ти нездужаєш і встати,
Щоб хоч огонь той розвести.
В холодній молишся оселі
За їх, за діточок.
А ти,
Великомученице! Села
Минаєш, плачучи, вночі.
І полем-степом ідучи,
Свого ти сина закриваєш.
Бо й пташка іноді пізнає
І защебече: —
Он байстря Несе покритка на базар.
Безталанная! Де ділась
Краса твоя тая,
Що всі люде дивувались?
Пропала, немає!
Все забрала дитиночка
І вигнала з хати,
І вийшла ти за царину,
З хреста ніби знята.
Старці тебе цураються,
Мов тії прокази.
А воно таке маленьке,
Воно ще й не лазить.
І коли-то воно буде
Гратись і промовить
Слово мамо. Великеє,
Найкращеє слово!
Ти зрадієш; і розкажеш
Дитині правдиво
Про панича лукавого,
І будеш щаслива.
Та не довго. Бо не дійде
До зросту дитина,
Піде собі сліпця водить,
А тебе покине
Калікою на розпутті,
Щоб собак дражнила,
Та ще й вилає. За те, бач,
Що на світ родила.
І за те ще, що так тяжко
Дитину любила.
І любитимеш, небого,
Поки не загинеш
Межи псами на морозі
Де-небудь під тином.
[Перша половина
1849, Косарал]
72=ĐÔI KHI
Đôi khi ông già bỗng nhiên
Cảm thấy như mình trẻ lại
Cảm thấy như ngày xưa ấy
Và ông già muốn hát lên.
Và bằng đôi cánh thiên thần
Niềm hy vọng quay về lại
Và cả một thời trẻ tuổi
Cũng tỏa ánh hào quang.
Điều gì làm ông vui mừng
Điều gì với ông đã xảy?
Đơn giản, ông già nghĩ rằng
Khi làm điều tốt cho ai đấy
Thì niềm vui đến tự nhiên
Biết yêu cái tốt chân thành
Bằng tấm lòng và suy nghĩ!
Mà niềm vui không chỉ một lần
Không một lần cây dừa cạn nở
Bởi thế vầng dương thánh thần
Đôi khi vẫn nhìn xuống hố
Và ở nơi tăm tối đó
Cỏ hoa vẫn cứ lớn lên.
[1849]
Буває, іноді старий
Не знає сам, чого зрадіє,
Неначе стане молодий,
І заспіває... як уміє.
І стане ясно перед ним
Надія ангелом святим,
І зоря, молодость його,
Витає весело над ним.
Що ж се зробилося з старим,
Чого зрадів оце? Того,
Що, бачите, старий подумав
Добро якесь комусь зробить.
А що ж, як зробить? Добре жить
Тому, чия душа і дума
Добро навчилася любить!
Не раз такому любо стане,
Не раз барвінком зацвіте.
Отак, буває, в темну яму
Святеє сонечко загляне,
І в темній ямі, як на те,
Зелена травка поросте.
[Перша половина 1849, Косарал]
73=TÔI CHẲNG TIẾC THƯƠNG
Tôi chẳng tiếc thương cho số phận mình
Dù cho tôi từng quí như vàng bạc
Tôi cũng chẳng thương những tháng ngày xanh
Dù lắm khi buồn đau, khó nhọc
Có điều làm tôi muốn khóc
Khi tôi gặp một chàng trai
Chàng trai cô đơn một mìmh
Như chiếc lá trên cành rớt xuống
Chàng ngồi đó, lưng tựa hàng song chắn
Chiếc áo chàng rách nát, tả tơi
Tôi cứ ngỡ rằng người ấy là tôi
Rằng đấy là tôi thời tuổi trẻ
Tôi hình dung một vực sâu nghiệt ngã
Chàng biết lấy đâu ý chí cho mình
Y chí và
tự do thần thánh thiêng liêng.
Như cát
bụi đều bay đi cả
Thật
uổng phí những tháng năm tuổi trẻ
Chẳng
nơi đâu nghe thấy một lời mời
Đành
lang thang, vất vưởng trên đời
Rồi ra
đi cày thuê, cuốc mướn.
Để cho
chàng khỏi khóc, thôi sầu thảm
Người ta
nghĩ ra một cách thế này
Khi
người ta bắt lính cho chàng đi ngay.
[1849]
73= І золотої й дорогої
І золотої й дорогої
Мені, щоб знали ни, ве жаль
Моєї долі молодої:
А іноді така печаль
Оступить душу, аж заплачу.
А ще до того, як побачу
Малого хлопчика в селі.
Мов одірвалось од гіллі,
Одно-однісіньке під тином
Сидить собі в старій ряднині.
Мені здається, що се я,
Що це ж та молодість моя.
Мені здається, що ніколи
Воно не бачитиме волі,
Святої воленьки. Що так
Даремне, марне пролетять
Його найкращії літа,
Що він не знатиме, де дітись
На сім широкім вольнім світі,
І піде в найми, і колись,
Щоб він не плакав, не журивсь,
Щоб він де-небудь прихиливсь,
То оддадуть у москалі.
[Перша половина 1849, Косарал]
74=KHI XƯA
Khi xưa bé ta cùng chơi với nhau
Ta yêu
nhau khi ta còn thơ bé
Mẹ của
ta cứ nhất định một điều
Khi ngắm
nhìn hai đứa trẻ:
“Ta sẽ cho
chúng lấy nhau”.
Rồi thời
gian trôi như nước chảy qua cầu
Ta chia
tay như ngày còn thơ bé
Từ đó
đến giờ chẳng gặp lại nhau.
Tôi bước
ra cuộc đời sóng gió ba đào
Phiêu
bạt khắp mọi nẻo
Trở về
nhà khi tóc đã trắng phau.
Làng tôi
ngày xưa màu sáng
Thế mà giờ
tôi ngỡ rằng
Làng của
tôi màu tối, lặng câm
Như tôi
đây, tự mình, màu xám.
Tôi cứ
ngỡ rằng
Trong
làng không có gì thay đổi
Sau bao
nhiêu tháng năm
Tất cả
vẫn như ngày ấy
Vẫn cánh
đồng, vẫn rặng cây dương
Trước
mặt tôi con suối và cây liễu
Cúi mình
trên mặt nước
Như
người mang gánh nặng, nhọc nhằn thay
Đây cái
hồ, đập nước, chiếc cối xay
Sau cánh
rừng cánh quạt đang lúc lắc
Cây sồi
xanh giống như người Cô-dắc
Từ trong
rừng đang bước dạo chơi
Và những
chiếc lá màu đen của sồi
Rắc đầy
lên ngôi vườn rộng
Nơi mà
ông bà tổ tiên trong im lặng
Nằm ngủ
yên trong bóng, tựa thiên đàng
Những
cây thập ác cúi mình, đã bị bỏ quên
Những
lời trên đó bị nước mưa rửa sạch
Mà chẳng
cần mưa, chẳng cần lời trên thập ác
Sao Thổ
Tinh cũng sẽ xoá sạch trơn...
Thôi thì
để cho mẹ cha yên nghỉ với Thánh thần!
“Thế còn
Oksana?” - hướng về người anh tôi hỏi
“Oksana
nào? - có phải cô bé con chơi với chú ngày nào
Cô bé
tóc xoăn mà chú đã quên lâu
Mà tại
sao, chú buồn điều gì vậy?”
“Không,
em không buồn về chuyện ấy
Mà
chuyện là Oksana cũng đi về chốn xa xôi
Với
những người lính rồi biến mất tăm hơi
Nàng trở
về nhà một năm sau đó
Nhưng
không một mình mà trên tay đứa bé
Nàng trở
về trong đêm tối không trăng sao
Nàng
ngồi xuống bên bờ rào
Rồi kêu
như chim tu hú
Tiếng
đáp lại cũng nghe rất rõ
Nàng
tháo bím tóc ra.
Sau đó
rồi nàng lại đi xa
Nàng đi
về đâu không ai biết được
Nàng hoá
điên rồi lang thang, phiêu bạt…
Thế mà
cô gái ngày xưa
Đẹp như
hoa! Nhưng hạnh phúc trời không cho...”
Mà có
thể, trời cho nhưng ai đấy
Đã lấy
cắp mất của nàng đi vậy
Và người
ta đã lừa dối cả ông trời.
[1849]
74= Ми вкупочці
колись росли
Ми вкупочці колись росли,
Маленькими собі любились,
А матері на нас дивились
Та говорили, що колись
Одружимо їх. Не вгадали.
Старі зарані повмирали,
А ми малими розійшлись
Та вже й не сходились ніколи.
Мене по волі і неволі
На старість ледве і додому.
Веселеє колись село
Чомусь тепер мені, старому,
Здавалось темним і німим,
Таким, як я тепер, старим.
І бачиться, в селі убогім
(Мені так бачиться) нічого
Не виросло і не згнило,
Таке собі, як і було.
І яр, і поле, і тополі,
І над криницею верба,
Нагнулася, як та журба
Далеко в самотній неволі.
Далеко в самотній неволі.
Ставок, гребелька, і вітряк
З-за гаю крилами махає.
І дуб зелений, мов козак
Із гаю вийшов та й гуляє
Попід горою; по горі
Садочок темний, а в садочку
Лежать собі у холодочку,
Мов у раю, мої старі.
Хрести дубові посхилялись,
Носило всюди. Принесло
Слова дощем позамивались...
І не дощем, і не слова
Гладесенько Сатурн стирає...
Нехай з святими спочивають
Мої старі... «Чи жива
Ота Оксаночка?» — питаю
У брата тихо я. «Яка?»
«Ота маленька, кучерява,
Що з нами гралася колись.
Чого ж ти, брате, зажуривсь?»
«Я не журюсь. Помандрувала
Ота Оксаночка в поход
За москалями та й пропала.
Вернулась, правда, через год,
Та що з того. З байстрям вернулась.
Острижена. Було, вночі
Сидить під тином, мов зозуля,
Та кукає; або кричить,
Або тихесенько співає
Та ніби коси розплітає.
А потім знов кудись пішла,
Ніхто не знає, де поділась,
Занапастилась, одуріла.
А Так так що краля! і не вбога,
Та талану господь не дав...»
А може, й дав, та хтось украв,
І одурив святого бога.
[Перша половина 1849, Косарал]
75=TA HÁT VỚI NHAU
Ta hát với nhau rồi sau đấy giã từ
Không nước mắt, không nói lời giã biệt
Liệu ta còn gặp lại nhau không biết
Để cùng nhau ta lại hát như xưa?
Có thể gặp lại nhau, nhưng đến bao giờ?
Và ở đâu? Bài hát gì sẽ hát
Không ở đây, và tất nhiên, bài hát khác
Chẳng phải bài đã từng hát ngày xưa!
Cuộc sống ở đây đầy nỗi âu lo
Nên ở đây những bài vui không hát
Nhưng dù sao những ngày ta có được
Ở chốn này đã buồn nhớ cùng nhau.
Ta nhớ về vùng đất chẳng u sầu
Sông Đnhép oai hùng, những ngọn đồi vạm vỡ
Và cả những khổ đau thời tuổi trẻ
Và thiên đường tội lỗi tháng ngày xanh!
[1850]
75= Ми заспівали,
розійшлись
Ми заспівали, розійшлись,
Без сльоз і без розмови,
Чи зійдемося ж знову?
Чи заспіваємо коли?
А може, й те... Та де? Якими?
І заспіваємо яку?
Не тут і, певне, не такими!
І заспіваєм не таку!
І тут невесело співали,
Бо й тут невесело було,
Та все-таки якось жилось,
Принаймні вкупі сумували,
Згадавши той веселий край,
І Дніпр той дужий, крутогорий,
І молодеє теє горе!..
І молодий той грішний рай!
[Перша половина 1850, Оренбург]
Ми заспівали, розійшлись,
Без сльоз і без розмови,
Чи зійдемося ж знову?
Чи заспіваємо коли?
А може, й те... Та де? Якими?
І заспіваємо яку?
Не тут і, певне, не такими!
І заспіваєм не таку!
І тут невесело співали,
Бо й тут невесело було,
Та все-таки якось жилось,
Принаймні вкупі сумували,
Згадавши той веселий край,
І Дніпр той дужий, крутогорий,
І молодеє теє горе!..
І молодий той грішний рай!
[Перша половина 1850, Оренбург]
76=LỬA TRẠI CHÁY BỪNG
Lửa trại cháy bừng, tiếng nhạc vang lên
Dàn nhạc dường như tru lên, nức nở
Trong đôi mắt của biết bao bạn trẻ
Bừng sáng lên thứ ánh sáng kim cương.
Bừng sáng lên những hy
vọng vàng son
Trong những đôi mắt vui
kia – là bởi
Những đôi mắt trẻ trung,
không lầm lỗi
Họ cười vang, họ trò
chuyện râm ran.
Họ nhảy múa. Chỉ tôi đứng
một mình
Mắt ngó quanh, dòng nước
mắt tuôn chảy
Tôi khóc vì điều chi, vì
ai vậy?
Có thể là tôi cảm thấy
tiếc thương
Như một ngày mưa, như một
ngày buồn
Thời tuổi trẻ của tôi
không còn nữa.
[1850]
Огні горять, музи́ка грає,
Музи́ка плаче, завиває;
Алмазом добрим, дорогим
Сіяють очі молодії;
Витає радость і надія
В очах веселих, любо їм,
Очам негрішним, молодим.
І всі регочуться, сміються,
І всі танцюють. Тілько я,
Неначе заклятий, дивлюся
І нишком плачу, плачу я.
Чого ж я плачу? Мабуть, шкода,
Що без пригоди, мов негода,
Минула молодость моя.
[Перша половина
1850. Оренбург]
77=RÕ THẬT ĐIỀU QUỈ THA MA
BẮT
Rõ thật điều quỉ tha ma bắt
Tôi phí bao giấy mực, bao tháng ngày
Và nhiều khi tôi một mình ngồi khóc
Có biết còn cách nào khác được đâu.
Không chỉ nguyên nhân ở nhân sinh quan
Mà tôi khóc như ông già đầu bạc
Uống rượu say rồi tuôn dòng nước mắt
Rằng sống cô đơn ở giữa trần gian.
[1850]
77= На батька бісового я
трачу
На батька бісового я трачу
І дні, і пера, і папір!
А іноді то ще й заплачу,
Таки аж надто. Не на мир
І на діла його дивившись,
А так, мов іноді упившись
Дідусь сивесенький, рида, —
Того, бачте, що сирота.
[Перша полонина
1850, Оренбург]
78=TÔI MƠ THẤY DƯỚI NGỌN ĐỒI CON
Tôi mơ thấy dưới ngọn đồi con
Có một mái nhà tranh màu xám
Đứng giữa những cây liễu cúi mình
Thấy một cụ già tóc bạc trắng
Đang đùa vui với lũ trẻ con
Những đứa bé tóc xoăn, cụ âu yếm
Những đứa cháu ruột của mình.
Tôi mơ thấy một bà mẹ ung dung
Bước ra khỏi nhà mỉm cười hạnh phúc
Hôn lũ trẻ con, ông già tóc bạc
Mẹ hôn tất cả ba lần.
Mẹ chăm đứa bé, mẹ cho nó ăn
Rồi ru ngủ. Còn ông già ngồi đó
Ông mỉm cười, thốt lên trong lặng lẽ:
“Thế tai họa và bất hạnh ở nơi nào
Những kẻ thù và đau khổ ở đâu?”
Và ông già đọc lên nghe rất khẽ
Những lời cầu nguyện, Cha của chúng con
Ánh mặt trời xuyên qua rặng liễu nhỏ
Rồi chìm trong lặng lẽ.
Buổi hoàng hôn
Tất cả lặng im. Ông già
cầu Chúa
Ông thấy vui trong lòng và
đi ngủ.
[1850]
78= І досі сниться: під
горою
І досі сниться: під горою
Меж вербами та над водою
Біленька хаточка. Сидить
Неначе й досі сивий дід
Коло хатиночки і бавить
Хорошеє та кучеряве
Своє маленькеє внуча.
І досі сниться, вийшла з хати
Веселая, сміючись, мати,
Цілує діда і дитя
Аж тричі весело цілує,
Прийма на руки, і годує,
І спать несе. А дід сидить
І усміхається, і стиха
Промовить нишком: — Де ж те лихо?
Печалі тії, вороги?
І нищечком старий читає,
Перехрестившись, Отче наш.
Крізь верби сонечко сіяє
І тихо гасне. День погас
І все почило. Сивий в хату
Й собі пішов опочивати.
[Перша половина
1850, Оренбург]
79=GỬI MARKO VOVCHOK
Kỷ niệm ngày 17 tháng 2 năm 1859
Tôi vừa ở miền Ural chưa lâu lắm
Tôi lang thang và cầu nguyện Chúa
Trời
Để không mất đi chân lý của tôi
Và để những lời của tôi không chết
Tôi nài xin. Và Ngài gửi cho tôi
Một nhà tiên tri dịu dàng thắm
thiết
Người sẽ tố cáo, vạch trần tội ác
Ôi, người là nguồn ánh sáng của tôi
Là ánh bình minh thần thánh rạng
ngời
Và người đối với tôi là sức trẻ
Hãy cháy lên, ánh sáng kia hãy tỏa
Hãy động viên con tim tội nghiệp
này
Con tim đau đớn… tôi sẽ hồi ngay
Và tôi sẽ gọi về bao ý nghĩ
Từ cõi chết trở về nơi trần thế.
Ôi, ý chí tự do, số kiếp tự do
Hỡi nhà tiên tri, nguồn sáng chói
lòa
Tôi gọi tên người bằng bao ý nghĩ.
[1859]
79= Марку Вовчку
На пам'ять 24 генваря
1859
Недавно я поза Уралом
Блукав і господа благав,
Щоб наша правда не пропала,
Щоб наше слово не вмирало;
І виблагав. Господь послав
Тебе нам, кроткого пророка
І обличителя жестоких
Людей неситих. Світе мій!
Моя ти зоренько святая!
Моя ти сило молодая!
Світи на мене, і огрій,
І оживи моє побите
Убоге серце, неукрите,
Голоднеє. І оживу,
І думу вольную на волю
Із домовини воззову.
І думу вольную... О доле!
Пророче наш! Моя ти доне!
Твоєю думу назову.
1859, февраля 17, СПб
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét