Thứ Tư, 14 tháng 6, 2017

Thơ Shevchenko Việt - U



THƠ VIẾT TRONG TÙ
Tặng những bạn tù của tôi

24= HỠI ANH EM  (bài mở đầu)

Hỡi anh em, ta hãy cùng nhau nhớ
Để cho tai họa không còn quay lại nữa!
Tôi và các anh em đã từng lặng lẽ
Đưa mắt nhìn qua song cửa nhà tù
Và ta nghĩ rằng: “Biết đến bao giờ
Ta lại gặp nhau, cùng nhau trò chuyện
Và trên miền đất giá lạnh
Tháng năm nào ta sẽ gặp lại nhau?”
Không bao giờ nữa đâu, không bao giờ
Ta lại cùng uống nước sông Đnhép nữa!
Chúng ta sẽ ra đi mỗi người mỗi ngả
Mang cho rừng và thảo nguyên đau khổ của mình
Một ít lâu nữa thôi chúng ta sẽ tin
Vào tự do – và ta sẽ bắt đầu cuộc sống
Giữa mọi người, như những con người.
Chứ bây giờ ở đây
Xin anh em hãy yêu mến nhau
Và Ukraina yêu quí
Và vì Ukraina đau khổ
Anh em hãy cầu nguyện Chúa Trời!
Anh em hãy quên Ngài
Và đừng nguyền rủa
Còn về tôi, trong cảnh tù đày
Xin anh em đôi khi hãy nhớ.
[1847]

 В казематі
Моїм соузникам посвящаю

24= ***
Згадайте, братія моя… 

Бодай те лихо не верталось, 
Як ви гарнесенько і я 
Із-за решотки визирали. 
І, певне, думали: “Коли 
На раду тиху, на розмову, 
Коли ми зійдемося знову 
На сій зубоженій землі?” 
Ніколи, братія, ніколи 
З Дніпра укупі не п'ємо! 
Розійдемось, рознесемо 
В степи, в ліси свою недолю, 
Повіруєм ще трохи в волю, 
А потім жити почнемо 
Меж людьми, як люде. 
А поки те буде, 
Любітеся, брати мої, 
Украйну любіте 
І за неї, безталанну, 
Господа моліте. 
І його забудьте, други, 
І не проклинайте. 
І мене в неволі лютій 
Інколи згадайте.

[1847, Орська кріпость]


25= I
Một mình em đơn độc
Như cọng cỏ trên đồng
Chúa Trời bỏ quên em
Ngài không cho hạnh phúc.
Ngài chỉ cho sắc đẹp
Ngài cho đôi mắt nai
Nhưng nước mắt dâng đầy
Trong những đêm cô độc.
Người thân – em không biết
Số kiếp thật long đong
Lớn lên giữa người dưng
Chẳng biết gì hạnh phúc!
Đâu cái người thân thiết
Có thể dựa mái đầu?
Con người ấy nơi đâu
Sao mình em đơn độc!
[1847]

 25= І
Ой одна я, одна,
Як билиночка в полі,
Та не дав мені Бог
Ані щастя, ні долі.
Тілько дав мені Бог
Красу — карії очі,
Та й ті виплакала
В самотині дівочій.
Ані братика я,
Ні сестрички не знала,
Меж чужими зросла,
І зросла — не кохалась!
Де ж дружина моя,
Де ви, добрії люде?
Їх нема, я сама.
А дружини й не буде!
[Між  17  квітня  і  19  травня  1847,  

С.-Петербург]  



26= II
Khe mương nối tiếp khe mương
Từ ngôi mộ trên thảo nguyên
Một người Cô-dắc buồn bã
Bước ra từ ngôi mộ
Người bước ra trong đêm
Rồi bước đi trên thảo nguyên
Buồn bã cất lên lời hát:
Người ta mang đất lấp
Rồi người ta trở về nhà
Không còn ai nhớ hết
Cả ba trăm người chết
Trên đồng thật nhẹ nhàng.
Đất không nhận về mình
Ngài Hetman vinh quang
Bắt dân làm nô lệ.
Chúng tôi được phái tới
Đã đổ máu của mình
Trên đất đai quê hương
Đã giết chết người anh
Đã uống máu thề nguyền
Rồi nằm đây yên nghỉ
Trong ngôi mộ rủa nguyền”.
Người buồn bã, lặng im
Dựa mình vào ngọn mác
Giữa ngôi mộ đứng lên
Người nhìn sông Đnhép
Rồi khóc lóc thảm thiết
Những đợt sóng trào dâng
Từ dòng sông Đnhép
Nghe tiếng vọng của đêm
Vang tiếng gà gáy sáng
Người Cô-dắc ngã xuống
Cả bờ mương rung lên
Còn ngôi mộ khóc rền.
[1847]

 26= II
За байраком байрак,
А там степ та могила.
Із могили козак
Встає сивий, похилий.
Встає сам уночі,
Іде в степ, а йдучи
Співа, сумно співає:
— Наносили землі
Та й додому пішли,
І ніхто не згадає.
Нас тут триста як скло!
Товариства лягло!
І земля не приймає.
Як запродав гетьман
У ярмо християн,
Нас послав поганяти.
По своїй по землі
Свою кров розлили
І зарізали брата.
Крові брата впились
І отут полягли
У могилі заклятій. —
Та й замовк, зажуривсь
І на спис похиливсь.
Став на самій могилі,
На Дніпро позирав,
Тяжко плакав, ридав,
Сині хвилі голосили.
З-за Дніпра із села
Руна гаєм гула,
Треті півні співали.
Провалився козак,
Стрепенувся байрак,
А могила застогнала.
[Між  17  квітня  і  19  травня  1847,  

С.-Петербург]


27= III
Tôi chẳng hề quan tâm một điều rằng
Tôi sẽ sống ở Ukraina hay không
Người đời sẽ quên hay vẫn nhớ
Về tôi đang sống ở nơi xa lạ
Những điều này tôi chẳng bận tâm.
Lớn lên trong tù, giữa những người xa lạ
Chẳng khóc than về những thứ của mình
Tôi khóc than trong tù rồi chết
Và mang theo tất cả xuống suối vàng.
Chẳng để lại chút gì, dù dấu vết
Trên đất Ukraina vinh quang
Của mình – mà không phải của mình.
Người cha sẽ không nói với đứa con
Rằng tôi từng sống trong tù ngục, rằng:
“Vì Ukraina mà con hãy cầu nguyện
Người đang chịu cảnh bị bạo hành”.
Tôi chẳng hề quan tâm rằng đứa con
Sẽ cầu nguyện hoặc không… mà tôi chỉ
Quan tâm sâu sắc một điều như thế:
Rằng Ukraina bị lũ bạo tàn
Bằng mánh khóe tinh ranh ru ngủ
Rồi cướp bóc, đốt Ukraina trong lửa…
Điều này thì tôi thực sự quan tâm.
[1847]

 27= III
Мені однаково, чи буду
Я жить в Україні, чи ні.
Чи хто згадає, чи забуде
Мене в снігу на чужині —
Однаковісінько мені.
В неволі виріс між чужими
І, неоплаканий своїми,
В неволі, плачучи, умру.
І все з собою заберу,
Малого сліду не покину
На нашій славній Україні,
На нашій — не своїй землі.
І не пом’яне батько з сином,
Не скаже синові: — Молись,
Молися, сину, за Вкраїну
Його замучили колись. —
Мені однаково, чи буде
Той син молитися, чи ні...
Та неоднаково мені,
Як Україну злії люде
Присплять, лукаві, і в огні
Її, окраденую, збудять...
Ох, не однаково мені.
[Між  17  квітня  і  19  травня  1847,  

С.-Петербург]  



28= IV
Người ta nói với em: “Đừng bỏ mẹ mà đi
Thế mà em bỏ mẹ rồi chạy trốn
Để mẹ đi tìm emchẳng tìm ra
Mẹ đi tìm rất nhiều năm, rồi bỗng
Ngồi khóc rồi chết. Từ lâu lắm
Nơi ngôi nhà ngày xưa em đã đùa chơi
Con chó trong sân giờ bỏ đi rồi
Đã bật tung những ô cửa sổ
Những con cừu non trong khu vườn nhỏ
Vẫn suốt ngày gặm cỏ, nhưng về đêm
Chim cú vọ lại rộn rã báo tin
Không cho những nhà hàng xóm ngủ.
Và trong trong khu vườn nhỏ của em
Những cây tầm ma giờ đã mọc lên
Trong lặng lẽ chúng vẫn chờ em đó
Giờ nước cạn khô ở trong đầm nhỏ
Nơi mà em từng tắm những ngày xanh
Khu rừng nhỏ buồn bã giờ bỏ hoang
Com chim ở đó không còn hát nữa
Bởi vì em đã nó theo mình
Trên bờ dốc giếng nước bị bỏ quên
Cây liễu héo khô nghiêng mình cúi xuống
Con đường nơi xưa em thường thơ thẩn
Giờ những bụi cây gai nhọn mọc đầy.
Giờ em ở đâu, em đi về đâu?
Giờ em đang sống trong nhà ai đó?
Trong gia đình lạ, trong miền đất lạ
Em đang vui với ai hở em tôi
Và cho ai em trao cả cuộc đời?
Con tim em vui, và trong cung điện
Diễm lệ kia, em không còn nhớ đến
Mái nhà tranh thân thiết của mình…
Tôi xin cầu Chúa, để cho nỗi buồn
Mãi mãi em không hề biết đến
Và để em tôi sống trong cung điện
Đức Chúa Trời em không đem kết án
Và em không nguyền rủa mẹ của mình.
[1847]

 28=IV
«Не кидай матері», — казали,
А ти покинула, втекла,
Шукала мати — не найшла,
Та вже й шукати перестала,
Умерла, плачучи. Давно
Не чуть нікого, де ти гралась,
Собака десь помандрувала,
І в хаті вибито вікно.
В садочку темному ягнята
Удень пасуться. А вночі
Віщують сови та сичі
І не дають сосідям спати.
І твій барвіночок хрещатий
Заріс богилою, ждучи
Тебе не квітчану. І в гаї
Ставочок чистий висихає,
Де ти купалася колись.
І гай сумує, похиливсь.
У гаї пташка не співає —
Й її з собою занесла,
В яру криниця завалилась,
Верба усохла, похилилась,
І стежечка, де ти ходила,
Колючим терном поросла.
Куда полинула, де ділась?
До кого ти перелетіла?
В чужій землі, в чужій сем’ї
Кого ти радуєш? До кого,
До кого руки приросли?
Віщує серце, що в палатах
Ти розкошуєш, і не жаль
Тобі покинутої хати...
Благаю Бога, щоб печаль
Тебе довіку не збудила,
Щоб у палатах не найшла...
Щоб Бога ти не осудила
І матері не прокляла.
[Між 17 квітня і 19 травня 1847, 

С.-Петербург]




29= V
Con thường đi ra mộ để làm chi? –
Mẹ rầu rĩ nói với cô con gái
Tại vì sao khổ đau cho uổng phí
Tại vì sao con không ngủ hằng đêm
Tại vì sao hở bồ câu của mẹ?”
Thế đấy, mẹ ơi!” Và cô gái lại đi
Còn người mẹ lại chờ trong nước mắt.

Những lá cỏ trên nấm mồ không khép
Mà đêm đêm tươi tốt
Còn cô gái đã hứa hôn
Trồng một cây kim ngân
Và rót đầy nước mắt
Nàng cầu Chúa lòng lành
Cho mưa rót xuống hằng đêm
Và những giọt sương dày dặc
Để cho kim ngân lớn lên
Và nghiêng cành xuống đất.
“Có thể, con chim sẽ quay về
Từ thế giới bên kia
Ta sẽ làm tổ
Và sẽ ngồi ở đó
Cùng với người trên cây kim ngân
Hai đứa sẽ ngồi bên
Sẽ khóc và nức nở
Rồi hát lên khe khẽ
Còn đến sáng ra
Cùng bay về thế giới bên kia”.

Và kim ngân đã lớn lên
Thả bóng cành bóng lá
Cô gái suốt ba năm
Vẫn đi ra ngôi mộ.
Sang năm thứ tư… cỏ cây không ngủ
Mà tươi tốt về đêm –
Cô gái với cây kim ngân
Thổn thức những lời như thế:
“Hỡi kin ngân cao rộng
Kim ngân của ta ơi
Từ giờ cho đến sáng
Không phải bằng nước lạnh!
Nước mắt thành dòng sông
Người ta tưới cho kim ngân
Bằng niềm vinh quang láu lỉnh
Mà người ta mang đến
Những người bạn gái xúc phạm
Người bạn gái của mình
Để cả cây kim ngân
Cũng chịu điều tai tiếng.
Xin hãy quấn lên đầu ta
Bằng những hạt sương sa
Và những cành lá rộng
Hãy che cho ta ánh nắng!
Và khi buổi sáng ra
Thiên hạ sẽ cười nhạo ta
Và những cành lá rộng kia
Bọn trẻ con bẻ xuống”.
Buổi sớm trong thung lũng
Con chim non thì thầm
Còn dưới cây kim ngân
Cô gái nằm im bất động
Cô gái trẻ không còn cử động
Cô đã yên giấc ngủ ngàn năm…

Mặt trời đã mọc lên
Trên ngôi mộ, mọi người đã đi làm
Người mẹ không ngủ dù không còn hy vọng
Nhưng người mẹ cứ chờ con
Để những dòng nước mắt rơi xuống.
[1847]

29= V
— Чого ти ходиш на могилу? —
Насилу мати говорила. —
Чого ти плачеш, ідучи,
Чому не спиш ти уночі,
Моя голубко сизокрила? —
— Так, мамо, так. — І знов ходила,
А мати плакала, ждучи.

Не сон-трава на могилі
Вночі процвітає.
То дівчина заручена
Калину сажає,
І сльозами поливає,
І Господа просить,
Щоб послав він дощі вночі
І дрібнії роси.
Щоб калина прийнялася,
Розпустила віти.
— Може, пташкою прилине
Милий з того світа.
Зов’ю йому кубелечко,
І сама прилину,
І будемо щебетати
З милим на калині.
Будем плакать, щебетати,
Тихо розмовляти,
Будем вкупочці уранці
На той світ літати.

І калина прийнялася,
Віти розпустила.
І три літа на могилу
Дівчина ходила.
На четверте... Не сон-трава
Вночі процвітає,
То дівчина з калиною
Плаче, розмовляє:
— Широкая, високая
Калино моя,
Не водою до схід-сонця
Поливаная.
Широкії ріки-сльози
Тебе полили,
Їх славою лукавою
Люде понесли.
Зневажають подруженьки
Подругу свою,
Зневажають червоную
Калину мою.
Повий мою головоньку,
Росою умий.
І вітами широкими
Од сонця закрий.
Вранці найдуть мене люде,
Мене осміють,
Широкії твої віти
Діти обірвуть. —
Вранці-рано на калині
Пташка щебетала,
Під калиною дівчина
Спала, не вставала.
Утомилось молодеє,
Навіки спочило...
Вставало сонце з-за могили,
Раділи люде, встаючи.
А мати й спати не лягала,
Дочку вечерять дожидала
І тяжко плакала, ждучи.
[Між 17 квітня і 19 травня 1847, 

С.-Петербург]



30= VI
Ôi ba con đường lớn
Từng gặp gỡ với nhau…
Ba người anh em nọ
Ra đi từ Ukraina.
Họ giã từ người vợ
Họ chia tay mẹ già
Chia tay em gái nhỏ
Và bạn gái ngày thơ.
Bà mẹ già sau đó
Trồng ba cây tần bì
Cô con dâu cũng đã
Trồng một cây dương cao.
Và cô em gái nhỏ
Trồng ba cây phong nhỏ
Còn bạn gái ngày thơ –
Cây kim ngân màu đỏ.
Nhưng kim ngân héo úa
Ba cây phong lụi tàn
Cây dương cao trụi lá
Tần bì cũng héo hon.
Ba người không trở lại
Người mẹ già nức nở
Vợ con giờ khóc than
Trong ngôi nhà lạnh lẽo.
Cô em gái đi tìm
Ba người nơi xứ lạ…
Còn cô bạn tuổi xanh
Đã nằm yên trong mộ.
Cả ba người anh em
Chu du khắp thế gian
Cả ba con đường lớn
Mận gai đã mọc tràn.
[1847]

 30= VI
Ой три шляхи широкії
Докупи зійшлися.
На чужину з України
Брати розійшлися.
Покинули стару матір.
Той жінку покинув,
А той сестру. А найменший —
Молоду дівчину.
Посадила стара мати
Три ясени в полі.
А невістка посадила
Високу тополю.
Три явори посадила
Сестра при долині...
А дівчина заручена —
Червону калину.
Не прийнялись три ясени,
Тополя всихала,
Повсихали три явори,
Калина зов’яла.
Не вертаються три брати.
Плаче стара мати,
Плаче жінка з діточками
В нетопленій хаті.
Сестра плаче, йде шукати
Братів на чужину...
А дівчину заручену
Кладуть в домовину.
Не вертаються три брати,
По світу блукають,
А три шляхи широкії
Терном заростають.
[Між 17 квітня і 19 травня 1847, 

С.-Петербург]



31= [VII]

Gửi N. Kostomarov


Mặt trời vui đã ẩn
Vào những đám mây mùa xuân
Những vị khách của xà lim
Được mời uống trà trong ngục
Và đã đến giờ đổi gác
Những lính canh mặc trang phục màu xanh.
Cảnh kín cổng cao tường
Cửa sổ và song sắt
Với tôi là vô cùng quen thuộc
Và tôi đã quên mất mát
Quên bao đau khổ ngày nào
Và những dòng nước mắt
Một thuở đã tuôn trào
Trên cánh đồng hoang vắng
Hoa cỏ chẳng mọc lên
Tôi nhớ về ngôi làng nhỏ của mình…
Những người chia tay tôi ngày đó
Mẹ cha tôi giờ đã nằm trong mộ…
Một nỗi buồn tràn ngập con tim
Có ai còn nhớ đến tôi chăng.
Bỗng tôi nhìn thấy: mẹ của người anh em
Bà mẹ già, đen hơn cả đất đen
Như vừa bước ra từ cây thánh giá…
Thế là tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời
Tôi ca tụng Ngài mãi mãi không thôi
Vì một điều tôi không có ai chia sẻ
Gông cùm của tôi, cảnh tù ngục của tôi!..
[1847]

 31= [VII]
Н. Костомарову

Веселе сонечко ховалось
В веселих хмарах весняних.
Гостей закованих своїх
Сердешним чаєм напували
І часових переміняли,
Синємундирих часових.
І до дверей, на ключ замкнутих,
І до решотки на вікні
Привик я трохи, і мені
Не жаль було давно одбутих,
Давно похованих, забутих,
Моїх кровавих тяжких сльоз.
А їх чимало розлилось
На марне поле. Хоч би рута,
А то нічого не зійшло!
І я згадав своє село.
Кого я там, коли покинув?
І батько й мати в домовині...
І жалем серце запеклось,
Що нікому мене згадати!
Дивлюсь — твоя, мій брате, мати,
Чорніше чорної землі,
Іде, з хреста неначе знята...
Молюся! Господи, молюсь!
Хвалить тебе не перестану!
Що я ні з ким не поділю
Мою тюрму, мої кайдани!
[1847, мая 9, С.-Петербург]


32= VIII
Vườn nhỏ anh đào bên mái tranh
Bọ cam ra rả gióng trên cành
Thợ cày trở về, bao thiếu nữ
Vừa đi vừa hát vang trên đường
Ở nhà đang chờ bao người mẹ.

Nhà nhà ăn tối bên mái tranh
Ngôi sao ban chiều đang nhô lên
Cô con gái nhỏ bày bữa tối
Người mẹ dường như bỗng cằn nhằn
Mà tiếng oanh vàng như cản lại.

Mẹ đặt con nằm bên mái tranh
Những đứa con thơ bé của mình
Bên con mẹ cùng thiêm thiếp ngủ
Tất cả lặng yên… còn thiếu nữ
Và tiếng dạ oanh vẫn không ngừng.
[1847]

 32= VIII
Садок вишневий коло хати,
Хрущі над вишнями гудуть.
Плугатарі з плугами йдуть,
Співають, ідучи, дівчата,
А матері вечерять ждуть.

Сем’я вечеря коло хати,
Вечірня зіронька встає.
Дочка вечерять подає,
А мати хоче научати,
Так соловейко не дає.
Поклала мати коло хати
Маленьких діточок своїх,
Сама заснула коло їх.
Затихло все, тілько дівчата
Та соловейко не затих.
[Між 19 і 30 травня 1847, 

С.-Петербург]



33= IX
Những tân binh từ sáng sớm
Thức dậy và ra khỏi làng
Đi theo những người lính
Là một cô gái trẻ măng.
Bà mẹ già khó nhọc
Đuổi theo cô con gái trên đồng
Và khi bà đuổi kịp
Bà mắng, bà quở trách.
Đưa con vào nấm mồ
Rồi bị gậy theo những người già.

Năm tháng trôi qua
Ngôi làng chẳng có gì đổi thay.
Bên rìa làng hoang vắng
Một mái nhà tranh cúi xuống
Và trong làng
Có người lính khập khễnh bước chân
Đi về phía cuối làng
Đôi mắt nhìn mái nhà tranh
Này người anh em, chỉ vô ích!
Cô con gái trẻ không nhìn
Và bà mẹ già tóc bạc
Không gọi con chuẩn bị bữa cơm!
Xưa cuộc sống ở làng
Dệt vải
Quay tơ
Thêu thùa, may vá
Nghĩ rằng họ sẽ sống thuận hòa
Đức Chúa Trời ca tụng.
Thế mà ai ngờ
Đành mãi mãi bỏ lại niềm hy vọng.
Giờ ngồi bên mái nhà tranh
Vắng vẻ và lặng im
Ánh hoàng hôn. Con cú vọ
Như bà mụ bên cửa sổ đang nhìn.
[1847]

 33= IX
Рано-вранці новобранці
Виходили за село,
А за ними, молодими,
І дівча одно пішло.
Подибала стара мати
Доню в полі доганяти...
І догнала, привела;
Нарікала, говорила.
Поки в землю положила,
А сама в старці пішла.

Минули літа, а село
Не перемінилось.
Тілько пустка на край села
Набік похилилась.
Коло пустки на милиці
Москаль шкандибає.
На садочок позирає,
В пустку заглядає.
Марне, брате, не вигляне
Чорнобрива з хати.
Не покличе стара мати
Вечеряти в хату.
А колись... Давно колись-то!
Рушники вже ткались,
І хустина мережалась,
Шовком вишивалась.
Думав жити, любитися
Та Бога хвалити!
А довелось... Ні до кого
В світі прихилитись.
Сидить собі коло пустки,
Надворі смеркає.
А в вікно, неначе баба,
Сова виглядає.
[Між 19 і 30 травня 1847, 

С.-Петербург]




34= X
Thật nặng nề sống ở nơi tù ngục
Chẳng được tự do nói điều sự thật.
Nhưng dù sao ta vẫn sống đây mà.
Dù ở trên đồng đất của người ta
Và giờ đây số phận vô cùng nghiệt ngã
Ta phải chờ đợi như là đợi Chúa.
Ta đợi chờ, ta gọi số kiếp ta
Ta nguyền rủa trí tuệ ta dại dột
Để người ta lừa như bao thằng ngốc
Để người ta dìm trong vũng nước tự do.
Con tim này tái tê, ta bỗng nhớ
Rằng biết đâu không được chết ở nhà
Rằng sẽ không được sống ở Ukraina
Để được yêu con người và yêu Chúa.
[1847]

34= X
В неволі тяжко, хоча й волі,
Сказать по правді, не було.
Та все-таки якось жилось.
Хоть на чужому, та на полі...
Тепер же злої тії долі,
Як Бога, ждати довелось.
І жду її, і виглядаю,
Дурний свій розум проклинаю,
Що дався дурням одурить,
В калюжі волю утопить.
Холоне серце, як згадаю,
Що не в Украйні поховають,
Що не в Украйні буду жить,
Людей і Господа любить.
[Між 19 і 30 травня 1847,
С.-Петербург]


35= XI
NGƯỜI CẮT CỎ

Người bước đi trên đồng
Không phải mùa cắt cỏ
Không đồng cỏ - núi non
Mặt đất và biển cả
Đều gào thét, rú lên.

Người cắt cỏ trong đêm
Gặp những con cú vọ
Người không hề ngơi nghỉ
Không đ ý một ai
Hỏi hay không cũng thế.

Không van xin nài nỉ
Người không mài lưỡi dao
Ngoại ô hay thành phố
Giống như con dao cũ
Không cần mài lần nào.

Nông phu và chủ quán
Thi sĩ, trẻ mồ côi.
Và người già hát đệm
Đặt đồng cỏ núi đồi
Vua chúa không hề hiếm.

Đến lượt người thấy tôi
Ở nơi chốn xa xôi
Đang ngồi sau song sắt
Không ai cho thập ác
Và quên lãng giữa đời.
[1847]

 35= XI

Понад полем іде,
Не покоси кладе,
Не покоси кладе — гори.
Стогне земля, стогне море,
Стогне та гуде!

Косаря уночі
Зострічають сичі.
Тне косар, не спочиває
Й ні на кого не вважає,
Хоч і не проси.

Не благай, не проси,
Не клепає коси.
Чи то пригород, чи город,
Мов бритвою, старий голить.
Усе, що даси.

Мужика, й шинкаря,
Й сироту-кобзаря.
Приспівує старий, косить,
Кладе горами покоси,
Не мина й царя.

І мене не мине,
На чужині зотне,
За решоткою задавить,
Хреста ніхто не поставить.
І не пом’яне.
[30 травня 1847, 

С.-Петербург]




36= XII
CÓ CÒN GẶP LẠI

Liệu chúng mình có còn gặp lại không?
Hay là đến muôn đời ta ly biệt?
Trên những cánh rừng và thảo nguyên mênh mông
Vang lên lời tình yêu và sự thật.

Biết làm sao!... Không quí trọng mẹ mình
Ta đành phải quí mẹ hiền kẻ khác!
Đành đợi chờ! Đó là ý trời xanh
Ta chỉ biết nguyện cầu và qui phục.

Rồi chúng ta xin hãy bước lên đường
Và với nhau xin hãy thề, hãy hứa
Xin hãy yêu Ucraina của mình
Ngay cả trong những tháng ngày đau khổ
Trong lời cầu nguyện hãy nhắc tên người!
[30-5-1847]

 36= XII
Чи ми ще зійдемося знову 

Чи вже навіки розійшлись? 
І слово правди і любові 
В степи і дебрі рознесли!


Нехай і так. Не наша мати, 

А довелося поважати. 
То воля господа. Годіть! 
Смирітеся, молітесь богу


І згадуйте один другого. 

Свою Україну любіть, 
Любіть її… Бо время люте, 
В остатню тяжкую минуту 
За неї господа моліть.

[Між 19 і 30 травня 1847, 

С.-Петербург]



37= TÔI KHÔNG NGỦ ĐƯỢC

Tôi không ngủ được, mà đêm – như biển cả
Cả tâm hồn lẫn trí tuệ bị tù đày
Mà với những bức tường kia
Câu chuyện không về nỗi đau khổ
Không về những giấc mộng ngày thơ!
Tôi trở mình trằn trọc chờ trời sáng
Còn phía sau cánh cửa kia có hai người lính
Đang trò chuyện về số phận của mình
Những gì nhớ những gì quên.

Người thứ nhất:
Ôi, ôi, ôi!
Bà cho không ít hơn một đồng bạc trắng
Còn quí ông lại vô cùng bủn xỉn!
Người ta chộp được tôi
Đưa về Kaluga rồi cho vào lính
Chuyện coi như là đã rồi.

Người thứ hai:
Còn chuyện của tôi nhớ lại mà thấy hãi!
Tôi vào lính là do tự nguyện mà thôi.
Ở làng ngày ấy tôi yêu một cô gái
Mẹ cô ấy cũng ủng hộ hai chúng tôi
Mẹ mong rằng hai đứa sẽ đẹp đôi
Nhưng tên chúa đất lại tìm cách ngăn cản:
Nói rằng bé hãy còn chưa kịp lớn
Tôi đành chờ, tìm cách đến với người yêu
Một năm sau tôi quyết định một điều:
Tôi cùng với mẹ đến nhà thưa chuyện
Nhưng chuyện với chúa đất không hề quan trọng
Mà ông ấy chỉ cần năm trăm rúp mà thôi
Biết kiếm đâu ra số tiền ấy hả trời?
Ông ấy không tin gì, dù van xin, khóc lóc
Không ai cho tiền, chỉ còn mỗi cách
Là bằng bàn tay lao động làm ra
Thế là tôi đã cất bước đi xa.
Qua vùng biển Đen, miền sông Đông rộng lớn
Tôi kiếm được tiền, mua nhiều quà tặng
Và quay về tìm Ganna yêu dấu của mình
Tôi trở về, tìm đến nhà em trong đêm
Nhưng chỉ nhìn thấy một bà già nằm bên bếp
Bà già gầy gò như đang chờ chết
Còn ngôi nhà giờ hoang vắng, trống trơn
Tôi bước đến gần với một vẻ kinh hoàng
Bà mẹ già đang trong cơn hấp hối
Không còn nhận ra tôichàng trai ngày ấy!
Tôi gọi cha đạo, gọi hàng xóm láng giềng
Cha đạo đến, nhưng tất cả đã muộn màng
Bà mẹ già đã chết rồi. Còn dấu vết
Của người tôi yêu thì không ai biết.
Nhưng có người hàng xóm đã nói với tôi:
Chẳng lẽ cậu không nghe tin cho đến lúc này?
Ganna đã bỏ đi về miền Si-bê-ri hun hút
Nàng đã từng phải phục dịch tên chúa đất
Sau đó nàng đã sinh một đứa con
Nhưng nàng đã dìm nó xuống sông!”
Nghe vậytôi cảm thấy như người bị bỏng
Bước ra khỏi ngôi nhà, cầm con dao quắm
Tôi chạy tìm tên chúa đất khốn kiếp kia
Tôi chạy không còn biết đất dưới chân là gì…
Nhưng tên chúa đất đã không còn ở đó
Nó học ở Kip rồiChuyện của tôi là thế!
Mẹ cha tôi, tôi bỏ lại ở quê hương
Và tôi vào lính, cất bước lên đường.
Giờ hồi tưởng lại mà tôi còn thấy khiếp
Tôi đã từng định đốt hết nhà tên chúa đất
Hoặc là sẽ tự giết chết mình
Nhưng Trời tha chovà anh biết không
Sau đó người ta chuyển tên chúa đất
Vào quân đội, và tôi nhìn thấy mặt.

Người thứ nhất:
Thế rồi sao?
Thì anh hãy xử hắn lúc này!

Người thứ hai:
Thôi để nó yên. Chúa Trời sẽ giúp
Quên đi những tháng ngày khủng khiếp.
______________

Những người lính đã trò chuyện huyên thiên
Còn tôi lúc gần sáng đã mơ màng ngủ
Và tôi mơ thấy biết bao tên địa chủ
Những kẻ đã làm tôi không thể ngủ yên.
[1847]

37= ***  
Не спалося, а ніч, як море.
(Хоч діялось не восени,
Так у неволі.) До стіни
Не заговориш ні про горе,
Ні про младенческие сны.
Верчуся, світу дожидаю,
А за дверима про своє
Солдатськеє нежитіє
Два часовії розмовляють.

1
Така ухабиста собой,
И меньше белой не дарила.
А барин бедненькой такой.
Меня-то, слышь, и подсмотрили,
Свезли в Калугу и забрили.
Так вот те случай-то какой!

2
А я... аж страшно, як згадаю.
Я сам пішов у москалі;
Таки ж у нашому селі
Назнав я дівчину... Вчащаю
І матір удову єднаю.
Так пан заклятий не дає.
«Мала, — каже, — нехай дождуся».
І, знай, вчащаю до Ганнусі.
На той рік знову за своє;
Пішов я з матір’ю просити.
«Шкода, — каже, — і не проси.
П’ятсот, — каже, — коли даси,
Бери хоч зараз...» Що робити!
Головко бідна! Позичать?
Та хто таку позичить силу?
Пішов я, брате, зароблять.
І де вже ноги не носили,
Поки ті гроші заробив.
Я годів зо два проходив
По Чорноморії, по Дону...
І подарунків накупив
Найдорогіших... От вертаюсь
В село до дівчини вночі —
Аж тілько мати на печі,
Та й та, сердешна, умирає,
А хата пусткою гниє.
Я викресав огню, до неї...
Од неї пахне вже землею,
Уже й мене не пізнає!
Я до попа та до сусіди,
Привів попа, та не застав —
Вона вже вмерла. Нема й сліду
Моєї Ганни. Я спитав
Таки сусіду про Ганнусю.
«Хіба ти й досі ще не знаєш?
Ганнуся на Сибір пішла.
До панича, бачиш, ходила,
Поки дитину привела
Та у криниці й затопила».
Неначе згага запекла.
Я ледве-ледве вийшов з хати,
Ще не світало. Я в палати
Пішов з ножем, не чув землі...
Аж панича вже одвезли
У школу в Київ. От як, брате!
Осталися і батько й мати,
А я пішов у москалі.
І досі страшно, як згадаю.
Хотів палати запалить
Або себе занапастить,
Та Бог помилував... А знаєш,
Його до нас перевели
Із армії чи що?

1
Так что же,
Ну, вот теперь и приколи.

2
Нехай собі. А Бог поможе,
І так забудеться колись.

Вони ще довго говорили,
Я став перед світом дрімать,
І паничі мені приснились
І не дали, погані, спать.
[Між 19 і 30 травня 1847,
С.-Петербург]



38=HỠI NHỮNG NGHĨ SUY

Hỡi những nghĩ suy, những ý nghĩ của tôi ơi
Với tôi, các người là duy nhất!
Trong những tháng năm này cay nghiệt
Xin các người hãy chớ bỏ rơi tôi.
Xin các người hãy kết lại thành bầy
Như chim câu, bằng những đôi cánh xám
Vì dòng Đnhép mênh mông rộng lớn
Hãy dạo chơi trên thảo nguyên
Với những người Kiếc-ghi-di đáng thương.
Cho dù họ là đám người nghèo khổ
Dù rách rưới, trần truồng, nhưng mà họ
Được tự do cầu nguyện Đức Chúa Trời.
Hãy bay về đây những ý nghĩ của tôi
Bằng những lời thỏ thẻ
Tôi sẽ âu yếm các người như con trẻ
Và tôi sẽ khóc cùng với các người.
[1847]

 38= Думи мої, думи мої…


Думи мої, думи мої, 
Ви мої єдині, 
Не кидайте хоч ви мене 
При лихій годині. 
Прилітайте, сизокрилі 
Мої голуб'ята, 
Із-за Дніпра широкого 
У степ погуляти 
З киргизами убогими. 
Вони вже убогі, 
Уже голі... Та на волі 
Ще моляться богу. 
Прилітайте ж, мої любі, 
Тихими речами 
Привітаю вас, як діток, 
І заплачу з вами. 
[Друга половина 1847, Орська кріпость]



39=GỬI N. N.

Mặt trời xuống, những ngọn đồi tối sẫm
Chim đã ngừng ca, cánh đồng im lặng
Tất cả đều đi về nghỉ trong nhà
Còn tôi lại nghĩ về Ukraina
Tôi thả ý nghĩ về với vườn anh đầo đỏ thắm
Hướng về Người tôi ước mơ, hi vọng
Tôi cảm thấy lòng mình thanh thản, nghỉ ngơi
Cánh đồng tối dần và cánh rừng, núi đồi
Và một ngôi sao lấp lánh giữa trời cao
Ôi ngôi sao! ánh sáng của tôi! - và nước mắt tuôn trào.
Ngươi có sáng trên trời  Ukraina không đấy
Những đôi mắt có đi tìm và tìm thấy
Ngôi sao trên trời hay họ đã quên
Nếu họ quên, xin để họ ngủ yên
Và về cuộc đời tôi xin đừng nghe thấy.
[1847]

39= N. N.
Сонце заходить, гори чорніють, 

Пташечка тихне, поле німіє, 
Радіють люде, що одпочинуть, 
А я дивлюся... і серцем лину 
В темний садочок на Україну. 
Лину я, лину, думу гадаю, 
І ніби серце одпочиває. 
Чорніє поле, і гай, і гори, 
На синє небо виходить зоря. 
Ой зоре! зоре! — і сльози кануть. 
Чи ти зійшла вже і на Украйні? 
Чи очі карі тебе шукають 
На небі синім? Чи забувають? 
Коли забули, бодай заснули, 
Про мою доленьку щоб і не чули.

[Друга половина 1847, Орська кріпость]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét