40=GỬI N. N
Ngày ấy tôi lên mười ba tuổi
Ngày ấy tôi chăn cừu ngoài bãi
Mặt trời khi đó thật rạng ngời
Mà có thể, do khi đó tôi
vui
Vì điều gì không biết.
Nhưng tất cả
Như cõi bồng lai ở trên
trời…..
Đã nghe tiếng gọi bữa ăn
chiều
Khi tôi ngập mình trong
bãi cỏ
Trong lặng lẽ tôi cầu xin
Chúa
Dù chỉ một lần nữa trong
đời
Được hạnh phúc và được
sướng vui
Tôi cứ ngỡ cả ruộng đồng,
tất cả
Cả bầy cừu cũng thảy mừng
vui
Mặt trời ấm – không phải
lửa ngục rồi!
Nhưng mặt trời sưởi ấm
chẳng được lâu
Chẳng được lâu linh nghiệm
những lời cầu
Tất cả đều trôi qua mau
Thiên đường của tôi sụp đổ
Tôi nhìn quanh, giống như
người ngái ngủ:
Ngôi làng tôi đã chuyển
thành màu đen
Bầu trời xanh của Chúa vốn
màu xanh
Cũng bỗng chốc trở thành u
ám.
Tôi ngoảnh nhìn bầy cừu
non
Bầy cừu non không phải của
mình!
Tôi ngoái nhìn mái nhà
tranh
Mái nhà tranh của tôi
chẳng có!
Đức Chúa Trời chẳng cho
tôi gì cả
Số phận của tôi cay đắng
xót xa
Để những dòng nước mắt
bỗng trào ra
Những dòng nước mắt chua chát
Một cô gái đi trên đường
đã gặp
Khi nàng nghe tôi khóc
Đã đến gần âu yếm, vỗ về
tôi
Nàng lau sạch dòng nước
mắt
Và nàng ôm hôn tôi.
Để lần nữa mặt trời lại
rạng ngời
Để lần nữa dường như tất
cả
Cây sồi xanh, khu vườn,
đồng cỏ
Lại trở thành của tôi.
Chúng tôi đùa vui, chúng
tôi cùng cười
Rồi xua đàn cừu xuống hồ
uống nước.
Hôm này nhớ lại. Ôi câu
chuyện vặt
Một nỗi buồn dâng ngập
giữa lòng tôi
Nếu không cho tôi cõi cực
lạc trên trời
Thì cho được sống theo
lòng thương của Chúa:
Cho tôi được cày đồng ruộng
quê hương
Cho không mang tiếng là kẻ
điên cuồng
Cho không biết cảnh sống
nơi tù ngục
Không rủa nguyền Đức Chúa
với người dân.
[1847]
Мені тринадцятий минало.
Я пас ягнята за селом.
Чи то так сонечко сіяло,
Чи так мені чого було?
Мені так любо, любо стало,
Неначе в Бога......
Уже прокликали до паю,
А я собі у бур’яні
Молюся Богу... І не знаю,
Чого маленькому мені
Тойді так приязно молилось,
Чого так весело було.
Господнє небо, і село,
Ягня, здається, веселилось!
І сонце гріло, не пекло!
Та недовго сонце гріло,
Недовго молилось...
Запекло, почервоніло
І рай запалило.
Мов прокинувся, дивлюся:
Село почорніло,
Боже небо голубеє
І те помарніло.
Поглянув я на ягнята —
Не мої ягнята!
Обернувся я на хати —
Нема в мене хати!
Не дав мені Бог нічого!..
І хлинули сльози,
Тяжкі сльози!.. А дівчина
При самій дорозі
Недалеко коло мене
Плоскінь вибирала,
Та й почула, що я плачу.
Прийшла, привітала,
Утирала мої сльози
І поцілувала...
Неначе сонце засіяло,
Неначе все на світі стало
Моє... лани, гаї, сади!..
І ми, жартуючи, погнали
Чужі ягнята до води.
Бридня!.. А й досі, як згадаю,
То серце плаче та болить,
Чому Господь не дав дожить
Малого віку у тім раю.
Умер би, орючи на ниві,
Нічого б на світі не знав.
Не був би в світі юродивим.
Людей і [Бога] не прокляв!
[Друга половина 1847, Орська
кріпость]
41=NƠI QUÊ NGƯỜI
Nơi quê người mặt trời không sưởi ấm
Còn ở quê nhà như đốt, như thiêu
Tôi bây giờ vô cùng sầu thảm
Khi nghĩ về quê mẹ thân yêu.
Tôi chẳng biết đến yêu thương ngọt ngào
Với mọi người tôi lảng tránh
Tôi lang
thang, thầm thì cầu nguyện
Tôi
nguyền rủa quân địa chủ, cường hào.
Giờ hiện
lên trước mặt tôi
Cái cảnh
tượng từ ngày xưa ngày xửa
Khi
người ta đóng đinh Chúa
Nhưng
giá bây giờ cũng bị đóng đinh thôi!
Lúc này
đây tôi không hề hạnh phúc
Và có
thể không hạnh phúc bao giờ
Khi mà
trên quê hương Ukraina
Đồng bào
tôi như sống trên đất khách.
Nhưng
tôi chỉ mong điều khác:
Khi tôi
chết đi
Đừng
đóng quan tài bằng gỗ của người ta
Mà hãy
mang cho tôi nắm đất
Một nắm
đất
Lấy từ
bờ sông Đnhép thiêng liêng
Chỉ thế
thôi là tôi thỏa nỗi lòng
Ai muốn
gì xin cứ đoán
Có ích
gì đi làm Thượng đế kia phiền muộn
Khi
không có của mình!
[1847]
41= Не гріє сонце на чужині
Не гріє сонце на чужині,
А дома надто вже пекло.
Мені невесело було
Й на нашій славній Україні.
Ніхто любив мене, вітав,
І я хилився ні до кого,
Блукав собі, молився богу
Та люте панство проклинав.
І згадував літа лихії,
Погані, давнії літа,
Тойді повісили Христа,
Й тепер не втік би син Марії!
Нігде не весело мені,
Та, мабуть, весело й не буде
І на Украйні, добрі люде;
Отже таки й на чужині.
Хотілося б... та й то для того,
Щоб не робили москалі
Труни із дерева чужого,
Або хоч крихотку землі
Із-за Дніпра мого святого
Святії вітри принесли,
Та й більш нічого. Так-то, люде,
Хотілося б... Та що й гадать...
Нащо вже й бога турбовать,
Коли по-нашому не буде.
[Друга половина 1847, Орська кріпость]
41= Не гріє сонце на чужині
Не гріє сонце на чужині,
А дома надто вже пекло.
Мені невесело було
Й на нашій славній Україні.
Ніхто любив мене, вітав,
І я хилився ні до кого,
Блукав собі, молився богу
Та люте панство проклинав.
І згадував літа лихії,
Погані, давнії літа,
Тойді повісили Христа,
Й тепер не втік би син Марії!
Нігде не весело мені,
Та, мабуть, весело й не буде
І на Украйні, добрі люде;
Отже таки й на чужині.
Хотілося б... та й то для того,
Щоб не робили москалі
Труни із дерева чужого,
Або хоч крихотку землі
Із-за Дніпра мого святого
Святії вітри принесли,
Та й більш нічого. Так-то, люде,
Хотілося б... Та що й гадать...
Нащо вже й бога турбовать,
Коли по-нашому не буде.
[Друга половина 1847, Орська кріпость]
42=MỘT NGƯỜI NÀY
Một người này hỏi một người kia:
“Mẹ sinh ta trên đời làm chi vậy?
Vì Thiện, ác? Ta không đoán nổi
Ta ước
mong chi? Sống để làm gì?
Không
hiểu ra, rồi ta chết đi
Để công
việc của đời ta từ giã.
Công
việc gì đâu, con xin lạy Chúa
Có việc
gì mà Người phán xét con?
Tốt nhất
là con trẻ đừng lớn lên
Đừng
giận Người, đấng thiêng liêng, thần thánh
Rằng
sinh ra trong tù đày, giam hãm
Điều xấu
hổ kia đem chia sẻ với Người.
[1847]
42= Один у
другого питаєм…
Один у другого питаєм,
Нащо нас мати привела?
Чи для добра? Чи то для зла?
Нащо живем? Чого бажаєм?
І, не дознавшись, умираєм,
А покидаємо діла...
Які ж мене, мій Боже милий,
Діла осудять на землі?
Коли б ті діти не росли,
Тебе, святого, не гнівили,
Що у неволі народились
І стид на Тебе понесли.
1847
43=NHỮNG CÂU HỎI
Những câu hỏi làm tôi kinh ngạc -
Làm gì đây? Từ đâu ta xuất phát?
Hay là đi nguyền rủa mọi người
Chỉ vô ích. Nhưng sống trên đời
Trong xiềng xích, lại ở nơi xa vắng
Giá mà tôi được như loài gặm nhấm
Tôi đủ sức để gặm những xích này
Sẽ gặm dần dần... Nhưng khốn nỗi thay
Những người thợ rèn chúng không phải thế
Và loại sắt này được tôi rất kỹ
Để gặm chúng. Đau khổ cho chúng tôi
Những kẻ tù đày, những kẻ mồ côi
Trên
thảo nguyên miền Uran hun hút.
[1847]
43= Самому
чудно. А де ж дітись?
Самому чудно. А де ж дітись?
Що діяти і що почать?
Людей і долю проклинать
Не варт, єй-богу. Як же жити
На чужині на самоті?
І що робити взаперті?
Якби кайдани перегризти,
То гриз потроху б. Так не ті,
Не ті їх ковалі кували,
Не так залізо гартували,
Щоб перегризти. Горе нам!
Невольникам і сиротам
В степу безкраїм за Уралом.
1847
44=TÔI
NHÌN RA THẢO NGUYÊN
Tôi nhìn ra thảo nguyên
Và nhìn lên cánh đồng
Hỡi Thượng Đế độ lượng
Ngài cho tôi tự do khi đã già không?
Nếu được trở về nhà
Tôi sẽ về Ukraina
Về ngôi nhà cha mẹ
Người mái tóc bạc phơ.
Thì tôi sẽ nghỉ ngơi
Và cầu xin Thượng Đế
Nhưng mà tôi nghĩ
Ước mơ không thành hiện thực rồi.
Vô vọng trong cảnh tù đày mộng mị
Cuộc đời trôi. Tôi không biết thế nào
Bạn bè ơi, xin hãy chỉ
Chứ tôi đang đánh mất đầu!
[1848]
44= Ой гляну я, подивлюся
Ой гляну я, подивлюся
На той степ, на поле;
Чи не дасть бог милосердий
Хоть на старість волі.
Пішов би я в Україну,
Пішов би додому,
Там би мене привітали,
Зраділи б старому,
Там би я спочив хоч мало,
Молившися богу,
Там би я... Та шкода й гадки,
Не буде нічого.
Як же його у неволі
Жити без надії?
Навчіть мене, люде добрі,
А то одурію.
[Перша половина 1848, Орська кріпость]
44= Ой гляну я, подивлюся
Ой гляну я, подивлюся
На той степ, на поле;
Чи не дасть бог милосердий
Хоть на старість волі.
Пішов би я в Україну,
Пішов би додому,
Там би мене привітали,
Зраділи б старому,
Там би я спочив хоч мало,
Молившися богу,
Там би я... Та шкода й гадки,
Не буде нічого.
Як же його у неволі
Жити без надії?
Навчіть мене, люде добрі,
А то одурію.
[Перша половина 1848, Орська кріпость]
45=XIN NGÀI ĐỪNG ĐEM CHO MỘT AI
Xin Ngài đừng đem cho một ai
Những gì Ngài đã ban cho
tôi –
Ngày tháng trôi một cách
uổng phí
Chẳng tự do ở chốn quê
người.
Tôi muốn bước trên đồng cỏ
Muốn xua đi những nỗi
buồn.
Nhưng có một điều tai họa
Người ta không thả đôi
chân.
[1848]
45= Та не дай, господи, нікому
Та не дай, Господи, нікому,
Як мені тепер, старому,
У неволі пропадати,
Марне літа коротати.
Ой піду я степом-лугом
Та розважу свою тугу.
Не йди, кажуть, з ції хати
Не пускають погуляти.
[Друга половина
1848, Косарал]
46=KHI CÓ MỘT MÁI NHÀ
Thật là hay khi có một mái nhà
Mà ở nhà có mẹ, cô em gái
Thật là hạnh phúc lắm vậy!
Nhưng mà tôi chẳng có bao giờ
Không bao giờ có một cô em gái
Dù cuộc đời vẫn cứ thế đi qua.
…………………………........
Nhưng mà tôi cũng có một lần
Ở nơi xứ lạ, chốn xa xăm
Khóc cho số phận mình nghiệt ngã
Chẳng còn dù chỉ mái nhà tranh!
……………………………....
Chúng tôi rất lâu trên
biển lang thang
Rồi về Đa-ri-a thả neo cập
bến
Từ làng Vatag người ta
mang thư đến
Và tất cả chúng tôi đã đọc
thì thầm.
Rồi tôi cùng với người
đồng nghiệp đã nằm
Cùng trò chuyện và cùng
nhau mơ ước
Tôi nghĩ rằng: ở đâu niềm
hạnh phúc
Thư hay mẹ trên đời này có
được?
– “Anh có không?” – “Vợ và
các con
Và ngôi nhà, bà mẹ, cô em
gái!
Còn thư thì không…”
……………………………….
[1848]
46= Добро́, у кого є господа
Добро́, у кого є господа,
А в тій господі є сестра
Чи мати добрая. Добра,
Добра такого таки зроду
У мене, правда, не було,
А так собі якось жилось.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
І довелось колись мені
В чужій далекій стороні
Заплакать, що немає роду,
Нема пристанища, господи!
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ми довго в морі пропадали,
Прийшли в Дар’ю, на якор стали.
З Ватаги письма принесли
І всі тихенько зачитали.
А ми з колегою лягли
Та щось такеє розмовляли.
Я думав, де б того добра,
Письмо чи матір, взять на світі.
— А в тебе єсть? — Жена і діти,
І дом, і мати, і сестра!
А письма нема...
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
[Друга половина 1848, Косарал]
47=KHÓC CHO NHỮNG NGÀY XƯA
Giá mà ta sẽ còn gặp lại nhau
Thì em sẽ thế nào, em có sợ?
Có bằng những lời êm ái, ngọt ngào
Em thốt lên bên tai tôi khi đó?
Không.
Em sẽ chẳng nhận ra
Mà, có
thể, nhớ ra và nói:
Tất cả
chỉ là trong một giấc mơ!
Còn tôi
sẽ mừng vui trở lại.
Người
con gái có đôi mắt đen!
Khi tôi
hồi tưởng lại
Về những
ngày xưa thân ái
Vui vẻ
và cay đắng, xót xa
Thì tôi
sẽ khóc oà.
Xin cám
ơn điều này không sự thật
Mà chỉ
là giấc mơ
Xin rót
đầy nước mắt
Khóc cho
những ngày xưa!
[1848]
47= Якби зустрілися ми знову
Якби зустрілися ми знову,
Чи ти злякалася б, чи ні?
Якеє тихеє ти слово
Тойді б промовила мені?
Ніякого. І не пізнала б.
А може б, потім нагадала,
Сказавши: «Снилося дурній».
А я зрадів би, моє диво!
Моя ти доле чорнобрива!
Якби побачив, нагадав
Веселеє та молодеє
Колишнє лишенько лихеє.
Я заридав би, заридав!
І помоливсь, що не правдивим,
А сном лукавим розійшлось,
Слізьми-водою розлилось
Колишнєє святеє диво!
[Друга половина 1848, Косарал]
47= Якби зустрілися ми знову
Якби зустрілися ми знову,
Чи ти злякалася б, чи ні?
Якеє тихеє ти слово
Тойді б промовила мені?
Ніякого. І не пізнала б.
А може б, потім нагадала,
Сказавши: «Снилося дурній».
А я зрадів би, моє диво!
Моя ти доле чорнобрива!
Якби побачив, нагадав
Веселеє та молодеє
Колишнє лишенько лихеє.
Я заридав би, заридав!
І помоливсь, що не правдивим,
А сном лукавим розійшлось,
Слізьми-водою розлилось
Колишнєє святеє диво!
[Друга половина 1848, Косарал]
48=TRÊN ĐẤT UKRAINA
Tôi lớn lên ở quê người
Và sống nơi đất khách
Trong cuộc đời cô đơn của tôi
Tôi không thể gọi tên, không biết
Còn đâu trên đời tuyệt vời hơn sông Đnhép
Và quê hương yêu dấu Ukraina.
Nhưng nơi sung sướng là nơi ta không ở
Tôi nhìn thấy những nhọc nhằn, gian khó
Trong một lần chưa xa
Tôi có dịp ghé về Ukraina.
Trong
một ngôi làng trù phú
Nơi có
bà mẹ coi tôi như con nhỏ
Mẹ thắp
ngọn nến lên
Rồi mẹ
cầu nguyện trong đêm
Mẹ mong
cho số phận
Sẽ yêu
đứa con của mình
Nhưng mà
mẹ ơi
Mẹ đi
ngủ sớm quá
Ông trời
sẽ nguyền rủa
Số phận
của con.
Nghĩ lại
thấy mà kinh
Trong
ngô làng trù phú tươi xinh
Đất đen
nhưng trên đất
Những
con người phiêu bạt, trần truồng
Chỉ
trong đầm cây cỏ tươi xanh.
Làng có
vẻ như vừa qua đám cháy
Và con
người có vẻ như ngu muội
Không
nói năng, vào sưu dịch cứ đi
Lại còn
mang theo những đứa trẻ kia.
Tôi đã
khóc lên rồi quay trở lại
Đi về
chốn xa xôi
Không
chỉ một làng này thôi
Mà khắp
nơi ở Ukraina đều như vậy
Bọn địa chủ,
quan lại
Chúng áp
bức, bóc lột con người
Dồn việc
làm cho đến chết thì thôi!
Còn
những người cháy túi
Mang đến
cho những kẻ cho vay nặng lãi
Những
chiếc quần cộc cuối cùng.
Thật
đáng sợ và thật nặng nề
Khi biệt
tăm nơi xa vắng!
Nhưng
còn khổ hơn khi ở Ukraina
Nhìn
thấy hết rồi khóc và im lặng!
Một khi
chưa thấy khủng khiếp thế nào
Thì cái
ác lại tưởng rằng cái tốt
Từ xa
xưa trên đất Ukraina
Sông
Đnhép trôi giữa những ngọn đồi
Như đứa
con thơ trong bầu sữa mẹ.
Sẽ khoe
sắc và sẽ đáng yêu hơn
Khắp
Ukraina yêu thương
Những
ngôi vườn rợp bóng
Những
ngôi làng rộng
Và trong
những làng vui
Sẽ vui
lên cuộc sống của con người.
Tất cả
sẽ là như vậy
Nếu như
không còn lại
Dấu vết
cường hào trên đất Ukraina.
[1848]
48= І виріс я на
чужині
І виріс я на чужині,
І сивію в чужому краї:
То одинокому мені
Здається — кращого немає
Нічого в Бога, як Дніпро
Та наша славная країна...
Аж бачу, там тілько добро,
Де нас нема. В лиху годину
Якось недавно довелось
Мені заїхать в Україну,
У те найкращеє село...
У те, де мати повивала
Мене малого і вночі
На свічку Богу заробляла;
Поклони тяжкії б’ючи,
Пречистій ставила, молила,
Щоб доля добрая любила
Її дитину... Добре, мамо,
Що ти зарані спать лягла,
А то б ти Бога прокляла
За мій талан.
Аж страх погано
У тім хорошому селі.
Чорніше чорної землі
Блукають люди, повсихали
Сади зелені, погнили
Біленькі хати, повалялись,
Стави бур’яном поросли.
Село неначе погоріло,
Неначе люде подуріли,
Німі на панщину ідуть
І діточок своїх ведуть!..
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. .
І я, заплакавши, назад
Поїхав знову на чужину.
І не в однім отім селі,
А скрізь на славній Україні
Людей у ярма запрягли
Пани лукаві... Гинуть! Гинуть!
У ярмах лицарські сини,
А препоганії пани
Жидам, братам своїм хорошим,
Остатні продають штани...
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
Погано дуже, страх погано!
В оцій пустині пропадать.
А ще поганше на Украйні
Дивитись, плакать — і мовчать!
А як не бачиш того лиха,
То скрізь здається любо, тихо,
І на Україні добро.
Меж горами старий Дніпро,
Неначе в молоці дитина,
Красується, любується
На всю Україну.
А понад ним зеленіють
Широкії села,
А у селах у веселих
І люде веселі.
Воно б, може, так і сталось,
Якби не осталось
Сліду панського в Украйні.
[Друга половина 1848, Косарал]
49=CHẲNG ĐỂ CHO AI
Chẳng để cho ai, không vì vinh quang gì cả
Những bài thơ của tôi như những mớ tóc xoăn
Tôi viết ra chúng – là chỉ để cho mình
Và chỉ thế thôi – những người anh em ạ.
Tôi làm thơ nơi tù ngục
Để quên đi nỗi buồn
Dường như từ Uk raina xa xăm
Những lời bay đến
Nằm trên trang giấy trắng
Chúng khóc và chúng cười
Như con trẻ, chúng làm cho vui
Tâm hồn bị người đời quên lãng
Tâm hồn bất hạnh. Nhưng mà tôi
Nhưng mà tôi rất vui với chúng.
Như ông bố trong ngôi nhà ấm cúng
Với những đứa con nhỏ của mình
Tôi vui vẻ và tôi hài lòng
Tôi nguyện cầu Thượng Đế
Xin Ngài chớ quên bầy con trẻ
Bầy con trẻ của tôi ở nơi xa
Và hãy để cho chúng bay về
nhà.
Cả một bầy trẻ nhỏ
Kể rằng chúng thật khổ
Thật khó sống trên đời.
Và ở trong gia đình vui
Trẻ con được âu yếm
Và mái đầu bạc óng
Của người bố lắc hoài
Mẹ thốt lên rằng: “Con trẻ
Thà đừng sinh ra trên
đời”.
Còn cô gái trẻ lại nghĩ:
“Ta yêu chúng quá đi
thôi”.
[1848]
49= Не для людей, тієї слави…
Не для людей, тієї слави,
Мережані та кучеряві
Оці вірші віршую я.
Для себе, братія моя!
Мені легшає в неволі,
Як я їх складаю,
З-за Дніпра мов далекого
Слова прилітають.
І стеляться на папері,
Плачучи, сміючись,
Мов ті діти. І радують
Одиноку душу
Убогую. Любо мені.
Любо мені з ними,
Мов батькові багатому
З дітками малими.
І радий я, і веселий,
І Бога благаю,
Щоб не приспав моїх діток
В далекому краю.
Нехай летять додомоньку
Легенькії діти
Та розкажуть, як то тяжко
Було їм на світі.
І в сім’ї веселій тихо
Дітей привітають,
І сивою головою
Батько покиває.
Мати скаже: бодай тії
Діти не родились.
А дівчина подумає:
Я їх полюбила.
[Друга половина
1848, Косарал]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét