Thơ viết trong tù (tiếng Ukraina: В казематі) – là tên một tập thơ của Taras Shevchenko viết trong nhà tù của Tổng cục III (The Third Section of His Imperial Majesty's Own Chancellery) ở Saint Petersburg sau khi bị bắt vì tội tham gia vào Hội ái hữu Thánh Cyril và Methodius (một tổ chức chính trị hoạt động bí mật ở Kiev nhằm chống lại chế độ nông nô).
Nội dung tập thơ
Tập “Thơ viết trong tù” lúc đầu có 13 bài thơ:
1-Một mình em đơn độc
(Ой одна я, одна)
2-Khe mương nối tiếp khe mương
(За байраком байрак)
3-Tôi chẳng hề quan tâm một điều rằng
(Мені однаково, чи буду)
4-Người ta nói với em: “Đừng bỏ mẹ mà đi”
(Не кидай матері! — казали)
5-Con thường đi ra mộ để làm chi?
(Чого ти ходиш на могилу?)
6-Ôi ba con đường lớn
(Ой три шляхи широкії)
7-Gửi N. Kostomarov
(Н. Костомарову)
8-Vườn nhỏ anh đào bên mái tranh
(Садо́к
вишне́вий ко́ло ха́ти)
9-Tôi không ngủ được, mà đêm – như biển cả
(Не спалося, — а ніч, як море)
10-Những tân binh từ sáng sớm
(Рано-вранці новобранці)
11-Thật nặng nề sống ở nơi tù ngục
(Неволі тяжко, хоча й волі)
12-Liệu chúng mình có còn gặp lại không?
(Чи ми ще зійдемося знову?)
13-Người cắt cỏ
(Косар)
Phiên bản gốc của những bài thơ này
– trong một bản thảo riêng biệt (được lưu trữ tại
Viện Văn học mang tên Taras Shevchenko, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Ukraina). Toàn bộ
tập thơ này được Shevchenko chép vào “Cuốn
sách nhỏ” ở pháo đài Orsk
và thêm một bài thơ mở đầu “Hỡi những người anh em, ta hãy cùng nhau nhớ”.
Trong “Cuốn sách lớn” nhà thơ đặt tên
cho tập thơ ghi lời đề tặng “Thơ viết
trong tù – Tặng những người bạn tù” (В казематі. Моїм соузникам посвящаю).
Bài thơ “Tôi không ngủ được, mà đêm – như
biển cả” không có trong “Cuốn sách
lớn”.
Xuất bản
Trong các năm 1858 – 1867 tất cả các bài thơ này
đã được in ở các ấn phẩm khác nhau. Tập “Thơ
viết trong tù” mở đầu một giai đoạn sáng tạo mới của Taras Shevchenko – kể
từ khi bị bắt năm 1847 đến khi mãn hạn tù.
Đặc điểm, tính nghệ thuật
của tập thơ tù
Cả tập thơ tù là những tâm trạng, những suy ngẫm
và những quan sát của Taras Shevchenko, đặc trưng đối với những bài thơ viết
trong thời kỳ này. Ở đây, lần đầu tiên xuất hiện những mô-típ tù đày, là nỗi
nhớ quê hương cùng với sự khẳng định thái độ và chính kiến không gì thay đổi
của nhà thơ. Về thể loại – tập thơ này là những suy ngẫm trữ tình, những bài
phúng dụ, những bài tình ca biến thể từ các mô-típ dân gian, những bài ballade
lãng mạn, những bài thơ đối thoại vv…
Dịch ra tiếng Việt
Tập thơ này đã được Nguyễn Viết Thắng dịch đầy đủ
ra tiếng Việt trong khuôn khổ của dự án “Taras
Shevchenko – 150 bài thơ và trường ca”, bao gồm những tác phẩm quan trọng
nhất của Taras Shevchenko và là những tác phẩm chưa in trong cuốn “Thơ Taras Shevchenko” xuất bản năm 2004,
tái bản năm 2012.
THƠ VIẾT TRONG TÙ
Tặng những bạn tù của tôi
24= HỠI ANH EM (bài mở đầu)
Hỡi anh em, ta hãy
cùng nhau nhớ
Để cho tai họa không
còn quay lại nữa!
Tôi và các anh em đã
từng lặng lẽ
Đưa mắt nhìn qua song
cửa nhà tù
Và ta nghĩ rằng:
“Biết đến bao giờ
Ta lại gặp nhau, cùng
nhau trò chuyện
Và trên miền đất giá
lạnh
Tháng năm nào ta sẽ
gặp lại nhau?”
Không bao giờ nữa
đâu, không bao giờ
Ta lại cùng uống nước
sông Đnhép nữa!
Chúng ta sẽ ra đi mỗi
người mỗi ngả
Mang cho rừng và thảo
nguyên đau khổ của mình
Một ít lâu nữa thôi
chúng ta sẽ tin
Vào tự do – và ta sẽ
bắt đầu cuộc sống
Giữa mọi người, như
những con người.
Chứ bây giờ ở đây
Xin anh em hãy yêu
mến nhau
Và Ukraina yêu quí
Và vì Ukraina đau khổ
Anh em hãy cầu nguyện
Chúa Trời!
Anh em hãy quên Ngài
Và đừng nguyền rủa
Còn về tôi, trong
cảnh tù đày
Xin anh em đôi khi hãy
nhớ.
[1847]
В казематі
Моїм соузникам посвящаю
24= ***
Згадайте, братія моя…
Бодай те лихо не верталось,
Як ви гарнесенько і я
Із-за решотки визирали.
І, певне, думали: “Коли
На раду тиху, на розмову,
Коли ми зійдемося знову
На сій зубоженій землі?”
Ніколи, братія, ніколи
З Дніпра укупі не п'ємо!
Розійдемось, рознесемо
В степи, в ліси свою недолю,
Повіруєм ще трохи в волю,
А потім жити почнемо
Меж людьми, як люде.
А поки те буде,
Любітеся, брати мої,
Украйну любіте
І за неї, безталанну,
Господа моліте.
І його забудьте, други,
І не проклинайте.
І мене в неволі лютій
Інколи згадайте.
Бодай те лихо не верталось,
Як ви гарнесенько і я
Із-за решотки визирали.
І, певне, думали: “Коли
На раду тиху, на розмову,
Коли ми зійдемося знову
На сій зубоженій землі?”
Ніколи, братія, ніколи
З Дніпра укупі не п'ємо!
Розійдемось, рознесемо
В степи, в ліси свою недолю,
Повіруєм ще трохи в волю,
А потім жити почнемо
Меж людьми, як люде.
А поки те буде,
Любітеся, брати мої,
Украйну любіте
І за неї, безталанну,
Господа моліте.
І його забудьте, други,
І не проклинайте.
І мене в неволі лютій
Інколи згадайте.
[1847, Орська кріпость]
25= I
Một mình em đơn độc
Như cọng cỏ trên đồng
Chúa Trời bỏ quên em
Ngài không cho hạnh
phúc.
Ngài chỉ cho sắc đẹp
Ngài cho đôi mắt nai
Nhưng nước mắt dâng
đầy
Trong những đêm cô
độc.
Người thân – em không
biết
Số kiếp thật long
đong
Lớn lên giữa người
dưng
Chẳng biết gì hạnh
phúc!
Đâu cái người thân
thiết
Có thể dựa mái đầu?
Con người ấy nơi đâu
Sao mình em đơn độc!
[1847]
25= І
Ой одна я, одна,
Як билиночка в полі,
Та не дав мені Бог
Ані щастя, ні долі.
Тілько дав мені Бог
Красу — карії очі,
Та й ті виплакала
В самотині дівочій.
Ані братика я,
Ні сестрички не знала,
Меж чужими зросла,
І зросла — не кохалась!
Де ж дружина моя,
Де ви, добрії люде?
Їх нема, я сама.
А дружини й не буде!
[Між 17 квітня і 19 травня 1847,
С.-Петербург]
С.-Петербург]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét