Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018

Mô phỏng Thánh Vịnh - p 1


15,16,17,18,19,20= PHỎNG THEO NHỮNG BẢN THÁNH CA CỦA VUA DAVID

1.
Người ngoan đạo
Không nghe lời khuyên kẻ ác
Không bước vào con đường tội ác
Như với đồng đất khô cằn.

Mà theo qui luật trời xanh
Linh hồn và ý chí
Sẽ đấu tranh đ trở thành
Cánh đồng tươi tốt
Và trên mặt nước
Cây sẽ tươi xanh.
Tất cả đều kết trái, đâm hoa
Con người cũng chín
Từ những người láu lỉnh
Dấu vết sẽ không còn
Sẽ như tro bụi
Gió cuốn trên thế gian.
Và từ những nấm mồ
Người ác không cùng người ngoan sống lại
Nhưng những việc tốt sẽ hồi sinh lại
Còn những việc xấu sẽ chết đi.

Псалми Давидові

15= 1.
Блаженний муж на лукаву
Не вступає раду,
І не стане на путь злого,
І з лютим не сяде.

А в законі господньому
Серце його й воля
Навчається; і стане він —
Як на добрім полі
Над водою посаджене
Древо зеленіє,
Плодом вкрите. Так і муж той
В добрі своїм спіє.
А лукавих, нечестивих
І слід пропадає,—
Як той попіл, над землею
Вітер розмахає,
І не встануть з праведними
Злії з домовини.
Діла добрих обновляться,
Діла злих загинуть.


12.
Ôi Thượng đế của tôi
Người quên tôi muôn đời?
Người nhìn đi nơi khác
Người từ giã tôi?
Tôi sẽ hành hạ linh hồn
Trong đớn đau, khó nhọc
Và kẻ thù độc ác
Đang ngó nhìn tôi rồi cười
Hãy cứu linh hồn
Và con tim đang sống
Xin đừng nói như tên láu lỉnh:
Ta đã vượt qua”.
Giờ tất cả kẻ thù
Đang cười tôi ngã xuống
Vào tay chúng. Hãy cứu tôi
Khỏi đau khổ chết người
Hãy cứu tôi, tôi xin cầu nguyện
Và sẽ ngợi ca
Ơn huệ kia bằng con tim thật thà
Bằng bản Thánh ca dịu êm và mới.

16= 12.
Чи ти мене, боже милий,
Навік забуваєш,
Одвертаєш лице своє,
Мене покидаєш?
Доки буду мучить душу
І серцем боліти?
Доки буде ворог лютий
На мене дивитись
І сміятись! Спаси мене,
Спаси мою душу,
Да не скаже хитрий ворог:
«Я його подужав».
І всі злії посміються,
Як упаду в руки,
В руки вражі. Спаси мене
Од лютої муки,
Спаси мене,— помолюся
І воспою знову
Твої блага чистим серцем,
Псалмом тихим, новим.


43.
Chúng tôi đã từng nghe
Về vinh quang của Ngài.
Ông bà chúng tôi kể lại
Rằng Ngài vô cùng dữ dội
Rằng từ thế kỷ xa xăm
Bằng bàn tay của mình
Ngài tạo nên những bàn tay
Rồi ngài phủ lên mặt đất này
Xác của quân thù hung dữ
Và những đứa con của Ngài
Ca tụng ngài, vì họ
Được sống trong thanh bình, đầy đ
Thế mà giờ đây
Ngài lại phủ lên những đứa con của Ngài
Những điều sỉ nhục
Và kẻ thù ác độc
Xua đuổi chúng tôi vào cái chết
Như xua những con cừu
Ngài trao chúng tôi
Vào tay quân thù nguyền rủa
Rồi Ngài từ giã
Mặc cho thiên hạ chê cười

Ngài đi vào câu chuyện cười
Cho những người gàn dở.
Người ta lắc đầu
Và cười nhạo chúng tôi
Ngày lại qua ngày
Chúng tôi sống trong xấu hổ
Rồi chết trong xiềng gông
Trong dối lừa, khó nhọc.
Chúng tôi không cầu Chúa khác
Mà chỉ cầu xin Ngài:
Hãy cứu chúng tôi
Khỏi bàn tay kẻ thù ác độc
Hãy đánh cho kẻ thù tan tác
Rồi nữa, đánh thêm
Cho thật mạnh hơn
Xin Ngài hãy rũ bỏ
Hết nước mắt, đắng cay
Xin hãy cứu những linh hồn này
Và xin Ngài hãy giúp
Cho chúng tôi nổi dậy chống chuyên quyền.

17= 43.
Боже, нашими ушима
Чули твою славу,
І діди нам розказують
Про давні кроваві
Тії літа; як рукою
Твердою своєю
Розв'язав ти наші руки
І покрив землею
Трупи ворогів. І силу
Твою восхвалили
Твої люде, і в покої,
В добрі одпочили,
Славя господа!.. А нині
Покрив єси знову
Срамотою свої люде,
І вороги нові
Розкрадають, як овець, нас
І жеруть! Без плати
І без ціни оддав єси
Ворогам проклятим;
Покинув нас на сміх людям,
В наругу сусідам,

Покинув нас, яко в притчу
Нерозумним людям.
І кивають, сміючися,
На нас головами;
І всякий день перед нами —
Стид наш перед нами.
Окрадені, замучені,
В путах умираєм,
Чужим богам не молимось,
А тебе благаєм:
«Поможи нам, ізбави нас
Вражої наруги.
Поборов ти першу силу,
Побори ж і другу,
Ще лютішу!.. Встань же, боже,
Вскую' будеш спати,
Од сліз наших одвертатись,
Скорби забувати!
Смирилася душа наша,
Жить тяжко в оковах!
Встань же, боже, поможи нам
Встать на ката знову».




Thư gửi đồng bào


14=BỨC THƯ GỬI NHỮNG ĐỒNG BÀO
CỦA TÔI, NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT, NHỮNG NGƯỜI ĐANG SỐNG VÀ NHỮNG NGƯỜI CHƯA SINH RA TRÊN ĐẤT UKRAINA CŨNG  NHƯ
NƯỚC NGOÀI

Ai nói rằng: “Ta yêu Đức Chúa Trời,
mà lại ghét anh em mình thì kẻ đó nói dối".
(Tân Ước_Thư thứ nhất của Giăng: 4-20)

(Trích)
Đêm dần buông
Trời tranh tối, tranh sáng
Mọi người sau công việc nhọc nhằn
Tất cả đều thiếp ngủ.
Chỉ mình tôi ngồi khóc như người nguyền rủa
Đêm cũng như ngày
Chốn ngã ba đông người
Nhưng không ai nhìn thấy
Nước mắt của tôi
Họ không nghe, không biết
Rằng người ta bán đứng sự thật
Đem xiềng gông đổi lấy xiềng gông

Người ta cười chế nhạo trời xanh
Người ta đặt ách áp bức
Gây nên những đau thương tang tóc
Và gieo rắc tai hoạ cho con người
Điều gì sẽ xảy ra? Xin chờ đó
Rồi các anh sẽ thấy ngay thôi!

Xin hãy nhớ ra, hãy hồi tỉnh lại
Những con người ngây dại mất trí khôn!
Hãy nhìn về chốn thiên đường
Nhìn về Ukraina quê mẹ
Hãy yêu Người bằng trái tim chân thật
Dù quê hương chỉ là đống tro tàn!
Hãy đứng dậy, hãy vứt bỏ xiềng gông
Hỡi những người anh em đang đâu đó
Chốn quê người xin đừng tìm gì cả
Mà tìm chẳng thấy đâu
Cả bầu trời ở trên đầu
Hay dưới cánh đồng xứ khác
Chỉ trong nhà mình - có sự thật
Và sức mạnh, ý chí, tự do.

Không ở đâu còn có Ukraina
Không ở đâu có sông Đnhép khác
Thế mà các anh cứ hướng về phương xa
Để tìm kiếm cho mình niềm hạnh phúc.
Hạnh phúc thánh thần là tự do, tự do!
Và tình đoàn kết anh em! Nếu tìm thấy
Hãy mang nó từ phương xa
Hãy đem về Ukraina.
Những lời to tát ở đây không thiếu
Tất cả đều ở đây.
Còn các anh nói với mọi người
Rằng trời sinh các anh ra chẳng để làm gì cả
Để các anh không nghe theo điều dối trá
Hãy nhớ rằng cha ông ra sao thì các anh
cũng sẽ thế mà thôi.
......................................................
………………………………..
………………………………..


Phải thấu hiểu vinh quang của tổ tiên
Của cha anh
Và đừng tự dối mình
Hãy học hỏi và hãy đọc
Hãy biết học cái hay người khác
Và nhận biết cái của mình
Mẹ của mình ai bỏ quên
Thì người đó bị ông trời trừng trị
Và những đứa con người đó
Sẽ không cho người đó bước vào nhà
Những người lạ cũng tránh xa.
Người nào ác độc
Sẽ không tìm thấy trên mặt đất
Nhà cửa và sự chào mời
Thật đau đớn cho tôi
Chỉ đi nhớ về những ngày buồn tủi
Và đau khổ của cha ông
Tôi biết làm sao để quên?
Dù tôi muốn quên khuấy
Một nửa cuộc đời
Vinh quang là thế đấy
Vinh quang Ukraina của tôi.
Các anh hãy đọc xem
Để không ngủ mà mơ thấy tất tần tật

Những điều không sự thật
Và để những nấm mồ
Được mở ra trước mắt.
Để các anh hỏi những người khốn khổ:
Ai, ở đâu và họ chết vì sao?
Hãy coi những người anh em thiểu số
Như anh em ruột thịt của mình
Hãy để cho người mẹ của các anh
Được mỉm cười lần đầu tiên trong thế kỉ!
Để mẹ ôm những đứa con của mẹ
Bằng cánh tay chắc nịch của mình
Và mẹ hôn những đứa con
Bằng đôi môi tự do và độc lập
Để quên đi điều khổ nhục
Từ nhiều thế kỉ đã xa
Cho sống dậy niềm vinh quang khác
Vinh quang của Ukraina
Và để cho ánh sáng
Lặng lẽ chiếu khắp nơi
Hãy ôm nhau, hỡi những người anh em của tôi ơi
Tôi van xin và tôi cầu khẩn!
14-12-1845


14=І мертвим, і живим,
і ненарожденним землякам моїм
в Украйні і не в Украйні
моє дружнєє посланіє

Аще кто речет, яко люблю бога,
а брата своего ненавидит,
ложь есть.
Соборно[е] послание Иоанна. Глава 4, с.20

І смеркає, і світає,
День божий минає,
І знову люд потомлений
І все спочиває.
Тілько я, мов окаянний,
І день і ніч плачу
На розпуттях велелюдних,
І ніхто не бачить,
І не бачить, і не знає
Оглухли, не чують;
Кайданами міняються,
Правдою торгують.

І господа зневажають,
Людей запрягають
В тяжкі ярма. Орють лихо,
Лихом засівають,
А що вродить? побачите,
Які будуть жнива!

Схамениться, недолюди,
Діти юродиві!
Подивиться на рай тихий,
На свою країну,
Полюбіте щирим серцем
Велику руїну,
Розкуйтеся, братайтеся!
У чужому краю
Не шукайте, не питайте
Того, що немає
І на небі, а не тілько
На чужому полі.
В своїй хаті своя й правда,
І сила, і воля.

Нема на світі України,
Немає другого Дніпра,
А ви претеся на чужину
Шукати доброго добра,
Добра святого. Волі! волі!
Братерства братнього! Найшли,
Несли, несли з чужого поля
І в Україну принесли
Великих слов велику силу
Та й більш нічого. Кричите,
Що бог вас создав не на те,
Щоб ви неправді поклонились!..
І хилитесь, як і хилились!
. ………………………..
…………………………
…………………………

Живу славу дідів своїх
І батьків лукавих.
Не дуріте самі себе,
Учітесь, читайте,
І чужому научайтесь,
Й свого не цурайтесь.
Бо хто матір забуває,
Того бог карає,
Того діти цураються,
В хату не пускають.
Чужі люди проганяють,
І немає злому
На всій землі безконечній
Веселого дому.
Я ридаю, як згадаю
Діла незабуті
Дідів наших. Тіжкі діла!
Якби їх забути,
Я оддав би веселого
Віку половину.
Отака-то наша слава,
Слава України.
Отак і ви прочитай[те],
Щоб не сонним снились
Всі неправди, щоб розкрились

Високі могили
Перед вашими очима,
Щоб ви розпитали
Мучеників, кого, коли,
За що розпинали!
Обніміте ж, брати мої,
Найменшого брата –
Нехай мати усміхнеться,
Заплакана мати.
Благословіть дітей своїх
Твердими руками
І діточок поцілує
Вольними устами.
І забудеться срамотня
Давняя година,
І оживе добра слава,
Слава України,
І світ ясний, невечерній
Тихо засіяє…
Обніміться ж, брати мої,
Молю вас, благаю!
14 декабря 1845, Вьюнища




Gửi Gô-gôn


12=GỬI GÔ-GÔN

Một ý nghĩ trước, một theo sau
Một thắt trong tim, một khổ đau
Một đang khóc thầm trong hờn giận
Giữa trái tim này - trời thấy đâu!

Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Biết tìm đâu thấy
Người hiểu và thân ái
Với những dòng này?

Tất cả đều mù, tất cả điếc
Tất cả gục xuống dưới xiềng gông
Bạn cười còn tôi khóc
Hỡi người bạn lớn
Nước mắt có ích gì không?

Chỉ cây cỏ tầm thường
Mới không nghe tiếng khóc
Của quê hương.
Người cha già không giết
Đứa con yêu của mình
Vì tự do, vì danh dự, vinh quang
Của Ukraina yêu dấu.

Không giết mà nuôi
Nuôi Sa hoàng, nuôi cuộc chiến
Rồi gửi đến mà nói rằng
Đây là sự đóng góp của chúng tôi
Cống vật cho ngôi vàng
Dâng cho người ngoại quốc...
Thì biết làm sao được bây giờ
Tôi và bạn sẽ cười và khóc.
30-12-1844

12=Гоголю

За думою дума роєм вилітає,
Одна давить серце, друга роздирає,
А третяя тихо, тихесенько плаче
У самому серці, може, й бог не побачить.

Кому ж її покажу я,
І хто тую мову
Привітає, угадає
Великеє слово?

Всі оглухли – похилились
В кайданах… байдуже…
Ти смієшся, а я плачу,
Великий мій друже.
А що вродить з того плачу?

Богилова, брате...
Не заревуть в Україні
Вольнії гармати.
Не заріже батько сина,
Своєї дитини,
За честь, славу, за братерство,
За волю Вкраїни.

Не заріже – викохає
Та й продасть і різницю
Москалеві. Це б то, бачиш,
Лепта удовиці
Престолові-отечеству
Та німоті плата.
Нехай, брате. А ми будем
Сміяться та плакать.
30 декабря 1844,  С.-Петербург
  

13=ĐỪNG GHEN CHI NGƯỜI GIÀU

Đừng ghen chi người giàu
Người giàu không biết đến
Tình yêu hay lòng kính trọng
Người giàu chỉ mua chúng mà thôi.

Cũng đừng ghen chi kẻ mạnh
Kẻ đó áp bức mọi người
Đừng ghen chi kẻ vinh quang ngời ngời
Bởi chính kẻ này rất biết
Yêu hắn chẳng có ai
Nhưng niềm vinh quang khó nhọc
Hắn giành được bằng nước mắt
Chỉ mua vui cho thiên hạ mà thôi.

Những người trẻ tuổi gặp nhau
Rồi yêu nhau, không bàn cãi
Ngỡ thiên đường nhưng nhìn vào sẽ thấy
Đang cựa mình nỗi khổ đau...
Hãy đừng ghen với một người nào
Mà hãy nhìn ra thế giới:
Trên mặt đất chẳng có thiên đường
Và cả trên trời cũng vậy!
4-10-1845

13= Не завидуй багатому

Не завидуй багатому:
Багатий не знає
Ні приязні, ні любові —
Він все те наймає.

Не завидуй могучому,
Бо той заставляє.
Не завидуй і славному:
Славний добре знає,
Що не його люди люблять,
А ту тяжку славу,
Що він тяжкими сльозами
Вилив на забаву.

А молоді як зійдуться,
Та любо, та тихо,
Як у раї,— а дивишся:
Ворушиться лихо.
Не завидуй же нікому,
Дивись кругом себе:
Нема раю на всій землі,
Та нема й на небі.
4 октября 1845, Миргород