Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018

Thơ viết trong tù - p 2


26= II
Khe mương nối tiếp khe mương
Từ ngôi mộ trên thảo nguyên
Một người Cô-dắc buồn bã
Bước ra từ ngôi mộ
Người bước ra trong đêm
Rồi bước đi trên thảo nguyên
Buồn bã cất lên lời hát:
Người ta mang đất lấp
Rồi người ta trở về nhà
Không còn ai nhớ hết
Cả ba trăm người chết
Trên đồng thật nhẹ nhàng.
Đất không nhận về mình
Ngài Hetman vinh quang
Bắt dân làm nô lệ.
Chúng tôi được phái tới
Đã đ máu của mình
Trên đất đai quê hương
Đã giết chết người anh
Đã uống máu thề nguyền
Rồi nằm đây yên nghỉ
Trong ngôi mộ rủa nguyền”.
Người buồn bã, lặng im
Dựa mình vào ngọn mác
Giữa ngôi mộ đứng lên
Người nhìn sông Đnhép
Rồi khóc lóc thảm thiết
Những đợt sóng trào dâng
Từ dòng sông Đnhép
Nghe tiếng vọng của đêm
Vang tiếng gà gáy sáng
Người Cô-dắc ngã xuống
Cả bờ mương rung lên
Còn ngôi mộ khóc rền.
[1847]

26= II
За байраком байрак,
А там степ та могила.
Із могили козак
Встає сивий, похилий.
Встає сам уночі,
Іде в степ, а йдучи
Співа, сумно співає:
— Наносили землі
Та й додому пішли,
І ніхто не згадає.
Нас тут триста як скло!
Товариства лягло!
І земля не приймає.
Як запродав гетьман
У ярмо християн,
Нас послав поганяти.
По своїй по землі
Свою кров розлили
І зарізали брата.
Крові брата впились
І отут полягли
У могилі заклятій. —
Та й замовк, зажуривсь
І на спис похиливсь.
Став на самій могилі,
На Дніпро позирав,
Тяжко плакав, ридав,
Сині хвилі голосили.
З-за Дніпра із села
Руна гаєм гула,
Треті півні співали.
Провалився козак,
Стрепенувся байрак,
А могила застогнала.
[Між  17  квітня  і  19  травня  1847,  
С.-Петербург]
  

27= III
Tôi chẳng hề quan tâm một điều rằng
Tôi sẽ sống Ukraina hay không
Người đời sẽ quên hay vẫn nhớ
Về tôi đang sống nơi xa lạ
Những điều này tôi chẳng bận tâm.
Lớn lên trong tù, giữa những người xa lạ
Chẳng khóc than về những thứ của mình
Tôi khóc than trong tù rồi chết
Và mang theo tất cả xuống suối vàng.
Chẳng để lại chút gì, dù dấu vết
Trên đất Ukraina vinh quang
Của mình – mà không phải của mình.
Người cha sẽ không nói với đứa con
Rằng tôi từng sống trong tù ngục, rằng:
“Vì Ukraina mà con hãy cầu nguyện
Người đang chịu cảnh bị bạo hành”.
Tôi chẳng hề quan tâm rằng đứa con
Sẽ cầu nguyện hoặc không… mà tôi chỉ
Quan tâm sâu sắc một điều như thế:
Rằng Ukraina bị lũ bạo tàn
Bằng mánh khóe tinh ranh ru ngủ
Rồi cướp bóc, đốt Ukraina trong lửa…
Điều này thì tôi thực sự quan tâm.
[1847]

27= III
Мені однаково, чи буду
Я жить в Україні, чи ні.
Чи хто згадає, чи забуде
Мене в снігу на чужині —
Однаковісінько мені.
В неволі виріс між чужими
І, неоплаканий своїми,
В неволі, плачучи, умру.
І все з собою заберу,
Малого сліду не покину
На нашій славній Україні,
На нашій — не своїй землі.
І не пом’яне батько з сином,
Не скаже синові: — Молись,
Молися, сину, за Вкраїну
Його замучили колись. —
Мені однаково, чи буде
Той син молитися, чи ні...
Та неоднаково мені,
Як Україну злії люде
Присплять, лукаві, і в огні
Її, окраденую, збудять...
Ох, не однаково мені.
[Між  17  квітня  і  19  травня  1847,  
С.-Петербург]




Thơ viết trong tù - p 1


Thơ viết trong tù (tiếng Ukraina: В казематі) – là tên một tập thơ của Taras Shevchenko viết trong nhà tù của Tổng cục III (The Third Section of His Imperial Majesty's Own Chancellery) Saint Petersburg sau khi bị bắt vì tội tham gia vào Hội ái hữu Thánh Cyril và Methodius (một tổ chức chính trị hoạt động bí mật Kiev nhằm chống lại chế đ nông nô).
Nội dung tập thơ
TậpThơ viết trong tùlúc đầu có 13 bài thơ:

1-Một mình em đơn độc
(Ой одна я, одна)
2-Khe mương nối tiếp khe mương
(За байраком байрак)
3-Tôi chẳng hề quan tâm một điều rằng
(Мені однаково, чи буду)
4-Người ta nói với em: “Đừng bỏ mẹ mà đi
(Не кидай матері! — казали)
5-Con thường đi ra mộ đ làm chi?
(Чого ти ходиш на могилу?)
6-Ôi ba con đường lớn
(Ой три шляхи широкії)
7-Gửi N. Kostomarov
(Н. Костомарову)
8-Vườn nhỏ anh đào bên mái tranh
(Садо́к вишне́вий ко́ло ха́ти)
9-Tôi không ngủ được, mà đêmnhư biển cả
(Не спалося, — а ніч, як море)
10-Những tân binh từ sáng sớm
(Рано-вранці новобранці)
11-Thật nặng nề sống nơi tù ngục
(Неволі тяжко, хоча й волі)
12-Liệu chúng mình có còn gặp lại không?
(Чи ми ще зійдемося знову?)
13-Người cắt cỏ
(Косар)

Phiên bản gốc của những bài thơ nàytrong một bản thảo riêng biệt (được lưu trữ tại Viện Văn học mang tên Taras Shevchenko, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Ukraina). Toàn bộ tập thơ này được Shevchenko chép vào Cuốn sách nhỏ pháo đài Orskthêm một bài thơ mở đầu “Hỡi những người anh em, ta hãy cùng nhau nhớ”. Trong “Cuốn sách lớn” nhà thơ đặt tên cho tập thơ ghi lời đề tặng “Thơ viết trong tù – Tặng những người bạn tù” (В казематі. Моїм соузникам посвящаю). Bài thơ “Tôi không ngủ được, mà đêm – như biển cả” không có trong “Cuốn sách lớn”.

Xuất bản
Trong các năm 1858 – 1867 tất cả các bài thơ này đã được in ở các ấn phẩm khác nhau. Tập “Thơ viết trong tù” mở đầu một giai đoạn sáng tạo mới của Taras Shevchenko – kể từ khi bị bắt năm 1847 đến khi mãn hạn tù.

Đặc điểm, tính nghệ thuật của tập thơ tù
Cả tập thơ tù là những tâm trạng, những suy ngẫm và những quan sát của Taras Shevchenko, đặc trưng đối với những bài thơ viết trong thời kỳ này. Ở đây, lần đầu tiên xuất hiện những mô-típ tù đày, là nỗi nhớ quê hương cùng với sự khẳng định thái độ và chính kiến không gì thay đổi của nhà thơ. Về thể loại – tập thơ này là những suy ngẫm trữ tình, những bài phúng dụ, những bài tình ca biến thể từ các mô-típ dân gian, những bài ballade lãng mạn, những bài thơ đối thoại vv…

Dịch ra tiếng Việt
Tập thơ này đã được Nguyễn Viết Thắng dịch đầy đủ ra tiếng Việt trong khuôn khổ của dự án “Taras Shevchenko – 150 bài thơ và trường ca”, bao gồm những tác phẩm quan trọng nhất của Taras Shevchenko và là những tác phẩm chưa in trong cuốn “Thơ Taras Shevchenko” xuất bản năm 2004, tái bản năm 2012.


THƠ VIẾT TRONG TÙ
Tặng những bạn tù của tôi

24= HỠI ANH EM  (bài mở đầu)

Hỡi anh em, ta hãy cùng nhau nhớ
Để cho tai họa không còn quay lại nữa!
Tôi và các anh em đã từng lặng lẽ
Đưa mắt nhìn qua song cửa nhà tù
Và ta nghĩ rằng: “Biết đến bao giờ
Ta lại gặp nhau, cùng nhau trò chuyện
Và trên miền đất giá lạnh
Tháng năm nào ta sẽ gặp lại nhau?”
Không bao giờ nữa đâu, không bao giờ
Ta lại cùng uống nước sông Đnhép nữa!
Chúng ta sẽ ra đi mỗi người mỗi ngả
Mang cho rừng và thảo nguyên đau khổ của mình
Một ít lâu nữa thôi chúng ta sẽ tin
Vào tự do – và ta sẽ bắt đầu cuộc sống
Giữa mọi người, như những con người.
Chứ bây giờ ở đây
Xin anh em hãy yêu mến nhau
Và Ukraina yêu quí
Và vì Ukraina đau khổ
Anh em hãy cầu nguyện Chúa Trời!
Anh em hãy quên Ngài
Và đừng nguyền rủa
Còn về tôi, trong cảnh tù đày
Xin anh em đôi khi hãy nhớ.
[1847]

В казематі
Моїм соузникам посвящаю

24= ***
Згадайте, братія моя…
Бодай те лихо не верталось,
Як ви гарнесенько і я
Із-за решотки визирали.
І, певне, думали: “Коли
На раду тиху, на розмову,
Коли ми зійдемося знову
На сій зубоженій землі?”
Ніколи, братія, ніколи
З Дніпра укупі не п'ємо!
Розійдемось, рознесемо
В степи, в ліси свою недолю,
Повіруєм ще трохи в волю,
А потім жити почнемо
Меж людьми, як люде.
А поки те буде,
Любітеся, брати мої,
Украйну любіте
І за неї, безталанну,
Господа моліте.
І його забудьте, други,
І не проклинайте.
І мене в неволі лютій
Інколи згадайте.
[1847, Орська кріпость]
  

25= I
Một mình em đơn độc
Như cọng cỏ trên đồng
Chúa Trời bỏ quên em
Ngài không cho hạnh phúc.
Ngài chỉ cho sắc đẹp
Ngài cho đôi mắt nai
Nhưng nước mắt dâng đầy
Trong những đêm cô độc.
Người thân – em không biết
Số kiếp thật long đong
Lớn lên giữa người dưng
Chẳng biết gì hạnh phúc!
Đâu cái người thân thiết
Có thể dựa mái đầu?
Con người ấy nơi đâu
Sao mình em đơn độc!
[1847]

25= І
Ой одна я, одна,
Як билиночка в полі,
Та не дав мені Бог
Ані щастя, ні долі.
Тілько дав мені Бог
Красу — карії очі,
Та й ті виплакала
В самотині дівочій.
Ані братика я,
Ні сестрички не знала,
Меж чужими зросла,
І зросла — не кохалась!
Де ж дружина моя,
Де ви, добрії люде?
Їх нема, я сама.
А дружини й не буде!
[Між  17  квітня  і  19  травня  1847,  
С.-Петербург]



Lời di chúc


23=LỜI DI CHÚC

Khi tôi chết xin hãy chôn
Trên đất Ukraina yêu thương.
Xin hãy đào mộ
Giữa thảo nguyên rộng mênh mông
Đ tôi được nằm giữa đồi mộ cổ
Bên trên con sông
Đ được nghe tiếng gầm réo
Của sông Đnhép chuyển dòng.
Và khi từ những cánh đồng
Máu của quân thù đáng ghét
Bị cuốn phăng
Thì khi đó
Tôi bước ra từ ngôi mộ
Tôi bước lên đạt đến ngưỡng thánh thần.
Và tôi sẽ nguyện cầu
Chứ bây giờ tôi chẳng biết có Chúa trời đâu.
Xin hãy giấu đi rồi đứng dậy
Gông cùm xin bẻ gãy
Và máu quân thù
Hãy tưới bằng khí phách hiên ngang
Còn về tôi trong Đại gia đình
Đại gia đình tự do và mới.
Xin hãy đừng quên nhắc tới
Một lời tốt đẹp thì thầm.
25-12-1845


23= Заповіт

Як умру, то поховайте
Мене на могилі,
Серед степу широкого,
На Вкраїні милій,
Щоб лани широкополі,
І Дніпро, і кручі
Було видно, було чути,
Як реве ревучий.
Як понесе з України
У синєє море
Кров ворожу... отойді я
І лани, і гори —
Все покину і полину
До самого бога
Молитися... а до того
Я не знаю бога.
Поховайте та вставайте,
Кайдани порвіте
І вражою злою кров'ю
Волю окропіте.
І мене в сем'ї великій,
В сем'ї вольній, новій,
Не забудьте пом'янути
Незлим тихим словом.
25 декабря 1845, в Переяславі