Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018

Thơ viết trong tù - p 5


32= VIII
Vườn nhỏ anh đào bên mái tranh
Bọ cam ra rả gióng trên cành
Thợ cày trở về, bao thiếu nữ
Vừa đi vừa hát vang trên đường
nhà đang chờ bao người mẹ.

Nhà nhà ăn tối bên mái tranh
Ngôi sao ban chiều đang nhô lên
Cô con gái nhỏ bày bữa tối
Người mẹ dường như bỗng cằn nhằn
Mà tiếng oanh vàng như cản lại.

Mẹ đặt con nằm bên mái tranh
Những đứa con thơ bé của mình
Bên con mẹ cùng thiêm thiếp ngủ
Tất cả lặng yên… còn thiếu nữ
Và tiếng dạ oanh vẫn không ngừng.
[1847]

32= VIII
Садок вишневий коло хати,
Хрущі над вишнями гудуть.
Плугатарі з плугами йдуть,
Співають, ідучи, дівчата,
А матері вечерять ждуть.

Сем’я вечеря коло хати,
Вечірня зіронька встає.
Дочка вечерять подає,
А мати хоче научати,
Так соловейко не дає.
Поклала мати коло хати
Маленьких діточок своїх,
Сама заснула коло їх.
Затихло все, тілько дівчата
Та соловейко не затих.
[Між 19 і 30 травня 1847,
С.-Петербург]
  

33= IX
Những tân binh từ sáng sớm
Thức dậy và ra khỏi làng
Đi theo những người lính
Là một cô gái trẻ măng.
Bà mẹ già khó nhọc
Đuổi theo cô con gái trên đồng
Và khi bà đuổi kịp
Bà mắng, bà quở trách.
Đưa con vào nấm mồ
Rồi bị gậy theo những người già.

Năm tháng trôi qua
Ngôi làng chẳng có gì đổi thay.
Bên rìa làng hoang vắng
Một mái nhà tranh cúi xuống
Và trong làng
Có người lính khập khễnh bước chân
Đi về phía cuối làng
Đôi mắt nhìn mái nhà tranh
Này người anh em, chỉ vô ích!
Cô con gái trẻ không nhìn
Và bà mẹ già tóc bạc
Không gọi con chuẩn bị bữa cơm!
Xưa cuộc sống làng
Dệt vải
Quay tơ
Thêu thùa, may vá
Nghĩ rằng họ sẽ sống thuận hòa
Đức Chúa Trời ca tụng.
Thế mà ai ngờ
Đành mãi mãi bỏ lại niềm hy vọng.
Giờ ngồi bên mái nhà tranh
Vắng vẻ và lặng im
Ánh hoàng hôn. Con cú vọ
Như bà mụ bên cửa sổ đang nhìn.
[1847]

33= IX
Рано-вранці новобранці
Виходили за село,
А за ними, молодими,
І дівча одно пішло.
Подибала стара мати
Доню в полі доганяти...
І догнала, привела;
Нарікала, говорила.
Поки в землю положила,
А сама в старці пішла.

Минули літа, а село
Не перемінилось.
Тілько пустка на край села
Набік похилилась.
Коло пустки на милиці
Москаль шкандибає.
На садочок позирає,
В пустку заглядає.
Марне, брате, не вигляне
Чорнобрива з хати.
Не покличе стара мати
Вечеряти в хату.
А колись... Давно колись-то!
Рушники вже ткались,
І хустина мережалась,
Шовком вишивалась.
Думав жити, любитися
Та Бога хвалити!
А довелось... Ні до кого
В світі прихилитись.
Сидить собі коло пустки,
Надворі смеркає.
А в вікно, неначе баба,
Сова виглядає.
[Між 19 і 30 травня 1847,
С.-Петербург]




Thơ viết trong tù - p 4


30= VI
Ôi ba con đường lớn
Từng gặp gỡ với nhau…
Ba người anh em nọ
Ra đi từ Ukraina.
Họ giã từ người vợ
Họ chia tay mẹ già
Chia tay em gái nhỏ
Và bạn gái ngày thơ.
Bà mẹ già sau đó
Trồng ba cây tần bì
Cô con dâu cũng đã
Trồng một cây dương cao.
Và cô em gái nhỏ
Trồng ba cây phong nhỏ
Còn bạn gái ngày thơ –
Cây kim ngân màu đỏ.
Nhưng kim ngân héo úa
Ba cây phong lụi tàn
Cây dương cao trụi lá
Tần bì cũng héo hon.
Ba người không trở lại
Người mẹ già nức nở
Vợ con giờ khóc than
Trong ngôi nhà lạnh lẽo.
Cô em gái đi tìm
Ba người nơi xứ lạ…
Còn cô bạn tuổi xanh
Đã nằm yên trong mộ.
Cả ba người anh em
Chu du khắp thế gian
Cả ba con đường lớn
Mận gai đã mọc tràn.
[1847]

30= VI
Ой три шляхи широкії
Докупи зійшлися.
На чужину з України
Брати розійшлися.
Покинули стару матір.
Той жінку покинув,
А той сестру. А найменший —
Молоду дівчину.
Посадила стара мати
Три ясени в полі.
А невістка посадила
Високу тополю.
Три явори посадила
Сестра при долині...
А дівчина заручена —
Червону калину.
Не прийнялись три ясени,
Тополя всихала,
Повсихали три явори,
Калина зов’яла.
Не вертаються три брати.
Плаче стара мати,
Плаче жінка з діточками
В нетопленій хаті.
Сестра плаче, йде шукати
Братів на чужину...
А дівчину заручену
Кладуть в домовину.
Не вертаються три брати,
По світу блукають,
А три шляхи широкії
Терном заростають.
[Між 17 квітня і 19 травня 1847,
С.-Петербург]


31= [VII]
Gửi N. Kostomarov

Mặt trời vui đã ẩn
Vào những đám mây mùa xuân
Những vị khách của xà lim
Được mời uống trà trong ngục
Và đã đến giờ đổi gác
Những lính canh mặc trang phục màu xanh.
Cảnh kín cổng cao tường
Cửa sổ và song sắt
Với tôi là vô cùng quen thuộc
Và tôi đã quên mất mát
Quên bao đau khổ ngày nào
Và những dòng nước mắt
Một thuở đã tuôn trào
Trên cánh đồng hoang vắng
Hoa cỏ chẳng mọc lên
Tôi nhớ về ngôi làng nhỏ của mình…
Những người chia tay tôi ngày đó
Mẹ cha tôi giờ đã nằm trong mộ…
Một nỗi buồn tràn ngập con tim
Có ai còn nhớ đến tôi chăng.
Bỗng tôi nhìn thấy: mẹ của người anh em
Bà mẹ già, đen hơn cả đất đen
Như vừa bước ra từ cây thánh giá…
Thế là tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời
Tôi ca tụng Ngài mãi mãi không thôi
Vì một điều tôi không có ai chia sẻ
Gông cùm của tôi, cảnh tù ngục của tôi!..
[1847]

31= [VII]
Н. Костомарову

Веселе сонечко ховалось
В веселих хмарах весняних.
Гостей закованих своїх
Сердешним чаєм напували
І часових переміняли,
Синємундирих часових.
І до дверей, на ключ замкнутих,
І до решотки на вікні
Привик я трохи, і мені
Не жаль було давно одбутих,
Давно похованих, забутих,
Моїх кровавих тяжких сльоз.
А їх чимало розлилось
На марне поле. Хоч би рута,
А то нічого не зійшло!
І я згадав своє село.
Кого я там, коли покинув?
І батько й мати в домовині...
І жалем серце запеклось,
Що нікому мене згадати!
Дивлюсь — твоя, мій брате, мати,
Чорніше чорної землі,
Іде, з хреста неначе знята...
Молюся! Господи, молюсь!
Хвалить тебе не перестану!
Що я ні з ким не поділю
Мою тюрму, мої кайдани!
[1847, мая 9, С.-Петербург]


Thơ viết trong tù - p 3


28= IV
Người ta nói với em: “Đừng bỏ mẹ mà đi
Thế mà em bỏ mẹ rồi chạy trốn
Đ mẹ đi tìm emchẳng tìm ra
Mẹ đi tìm rất nhiều năm, rồi bỗng
Ngồi khóc rồi chết. Từ lâu lắm
Nơi ngôi nhà ngày xưa em đã đùa chơi
Con chó trong sân giờ bỏ đi rồi
Đã bật tung những ô cửa sổ
Những con cừu non trong khu vườn nhỏ
Vẫn suốt ngày gặm cỏ, nhưng về đêm
Chim cú vọ lại rộn rã báo tin
Không cho những nhà hàng xóm ngủ.
Và trong trong khu vườn nhỏ của em
Những cây tầm ma giờ đã mọc lên
Trong lặng lẽ chúng vẫn chờ em đó
Giờ nước cạn khô ở trong đầm nhỏ
Nơi mà em từng tắm những ngày xanh
Khu rừng nhỏ buồn bã giờ bỏ hoang
Com chim ở đó không còn hát nữa
Bởi vì em đã nó theo mình
Trên bờ dốc giếng nước bị bỏ quên
Cây liễu héo khô nghiêng mình cúi xuống
Con đường nơi xưa em thường thơ thẩn
Giờ những bụi cây gai nhọn mọc đầy.
Giờ em ở đâu, em đi về đâu?
Giờ em đang sống trong nhà ai đó?
Trong gia đình lạ, trong miền đất lạ
Em đang vui với ai hở em tôi
Và cho ai em trao cả cuộc đời?
Con tim em vui, và trong cung điện
Diễm lệ kia, em không còn nhớ đến
Mái nhà tranh thân thiết của mình…
Tôi xin cầu Chúa, để cho nỗi buồn
Mãi mãi em không hề biết đến
Và để em tôi sống trong cung điện
Đức Chúa Trời em không đem kết án
Và em không nguyền rủa mẹ của mình.
[1847]

28=IV
«Не кидай матері», — казали,
А ти покинула, втекла,
Шукала мати — не найшла,
Та вже й шукати перестала,
Умерла, плачучи. Давно
Не чуть нікого, де ти гралась,
Собака десь помандрувала,
І в хаті вибито вікно.
В садочку темному ягнята
Удень пасуться. А вночі
Віщують сови та сичі
І не дають сосідям спати.
І твій барвіночок хрещатий
Заріс богилою, ждучи
Тебе не квітчану. І в гаї
Ставочок чистий висихає,
Де ти купалася колись.
І гай сумує, похиливсь.
У гаї пташка не співає —
Й її з собою занесла,
В яру криниця завалилась,
Верба усохла, похилилась,
І стежечка, де ти ходила,
Колючим терном поросла.
Куда полинула, де ділась?
До кого ти перелетіла?
В чужій землі, в чужій сем’ї
Кого ти радуєш? До кого,
До кого руки приросли?
Віщує серце, що в палатах
Ти розкошуєш, і не жаль
Тобі покинутої хати...
Благаю Бога, щоб печаль
Тебе довіку не збудила,
Щоб у палатах не найшла...
Щоб Бога ти не осудила
І матері не прокляла.
[Між 17 квітня і 19 травня 1847,
С.-Петербург]
  

29= V
Con thường đi ra mộ đ làm chi? –
Mẹ rầu rĩ nói với cô con gái
Tại vì sao khổ đau cho uổng phí
Tại vì sao con không ngủ hằng đêm
Tại vì sao hở bồ câu của mẹ?”
Thế đấy, mẹ ơi!” Và cô gái lại đi
Còn người mẹ lại chờ trong nước mắt.

Những lá cỏ trên nấm mồ không khép
Mà đêm đêm tươi tốt
Còn cô gái đã hứa hôn
Trồng một cây kim ngân
Và rót đầy nước mắt
Nàng cầu Chúa lòng lành
Cho mưa rót xuống hằng đêm
Và những giọt sương dày dặc
Đ cho kim ngân lớn lên
Và nghiêng cành xuống đất.
“Có thể, con chim sẽ quay về
Từ thế giới bên kia
Ta sẽ làm tổ
Và sẽ ngồi ở đó
Cùng với người trên cây kim ngân
Hai đứa sẽ ngồi bên
Sẽ khóc và nức nở
Rồi hát lên khe khẽ
Còn đến sáng ra
Cùng bay về thế giới bên kia”.

Và kim ngân đã lớn lên
Thả bóng cành bóng lá
Cô gái suốt ba năm
Vẫn đi ra ngôi mộ.
Sang năm thứ tư… cỏ cây không ngủ
Mà tươi tốt về đêm –
Cô gái với cây kim ngân
Thổn thức những lời như thế:
“Hỡi kin ngân cao rộng
Kim ngân của ta ơi
Từ giờ cho đến sáng
Không phải bằng nước lạnh!
Nước mắt thành dòng sông
Người ta tưới cho kim ngân
Bằng niềm vinh quang láu lỉnh
Mà người ta mang đến
Những người bạn gái xúc phạm
Người bạn gái của mình
Để cả cây kim ngân
Cũng chịu điều tai tiếng.
Xin hãy quấn lên đầu ta
Bằng những hạt sương sa
Và những cành lá rộng
Hãy che cho ta ánh nắng!
Và khi buổi sáng ra
Thiên hạ sẽ cười nhạo ta
Và những cành lá rộng kia
Bọn trẻ con bẻ xuống”.
Buổi sớm trong thung lũng
Con chim non thì thầm
Còn dưới cây kim ngân
Cô gái nằm im bất động
Cô gái trẻ không còn cử động
Cô đã yên giấc ngủ ngàn năm…

Mặt trời đã mọc lên
Trên ngôi mộ, mọi người đã đi làm
Người mẹ không ngủ dù không còn hy vọng
Nhưng người mẹ cứ chờ con
Để những dòng nước mắt rơi xuống.
[1847]

29= V
— Чого ти ходиш на могилу? —
Насилу мати говорила. —
Чого ти плачеш, ідучи,
Чому не спиш ти уночі,
Моя голубко сизокрила? —
— Так, мамо, так. — І знов ходила,
А мати плакала, ждучи.

Не сон-трава на могилі
Вночі процвітає.
То дівчина заручена
Калину сажає,
І сльозами поливає,
І Господа просить,
Щоб послав він дощі вночі
І дрібнії роси.
Щоб калина прийнялася,
Розпустила віти.
— Може, пташкою прилине
Милий з того світа.
Зов’ю йому кубелечко,
І сама прилину,
І будемо щебетати
З милим на калині.
Будем плакать, щебетати,
Тихо розмовляти,
Будем вкупочці уранці
На той світ літати.

І калина прийнялася,
Віти розпустила.
І три літа на могилу
Дівчина ходила.
На четверте... Не сон-трава
Вночі процвітає,
То дівчина з калиною
Плаче, розмовляє:
— Широкая, високая
Калино моя,
Не водою до схід-сонця
Поливаная.
Широкії ріки-сльози
Тебе полили,
Їх славою лукавою
Люде понесли.
Зневажають подруженьки
Подругу свою,
Зневажають червоную
Калину мою.
Повий мою головоньку,
Росою умий.
І вітами широкими
Од сонця закрий.
Вранці найдуть мене люде,
Мене осміють,
Широкії твої віти
Діти обірвуть. —
Вранці-рано на калині
Пташка щебетала,
Під калиною дівчина
Спала, не вставала.
Утомилось молодеє,
Навіки спочило...
Вставало сонце з-за могили,
Раділи люде, встаючи.
А мати й спати не лягала,
Дочку вечерять дожидала
І тяжко плакала, ждучи.
[Між 17 квітня і 19 травня 1847,
С.-Петербург]