Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018

Trên đất Ukraina


48=TRÊN ĐẤT UKRAINA

Tôi lớn lên quê người
Và sống nơi đất khách
Trong cuộc đời cô đơn của tôi
Tôi không thể gọi tên, không biết
Còn đâu trên đời tuyệt vời hơn sông Đnhép
Và quê hương yêu dấu Ukraina.

Nhưng nơi sung sướng là nơi ta không
Tôi nhìn thấy những nhọc nhằn, gian khó
Trong một lần chưa xa
Tôi có dịp ghé về Ukraina.
Trong một ngôi làng trù phú
Nơi có bà mẹ coi tôi như con nhỏ
Mẹ thắp ngọn nến lên
Rồi mẹ cầu nguyện trong đêm
Mẹ mong cho số phận
Sẽ yêu đứa con của mình
Nhưng mà mẹ ơi
Mẹ đi ngủ sớm quá
Ông trời sẽ nguyền rủa
Số phận của con.

Nghĩ lại thấy mà kinh
Trong ngô làng trù phú tươi xinh
Đất đen nhưng trên đất
Những con người phiêu bạt, trần truồng
Chỉ trong đầm cây cỏ tươi xanh.
Làng có vẻ như vừa qua đám cháy
Và con người có vẻ như ngu muội
Không nói năng, vào sưu dịch cứ đi
Lại còn mang theo những đứa trẻ kia.

Tôi đã khóc lên rồi quay trở lại
Đi về chốn xa xôi
Không chỉ một làng này thôi
Mà khắp nơi ở  Ukraina đều như vậy
Bọn địa chủ, quan lại
Chúng áp bức, bóc lột con người
Dồn việc làm cho đến chết thì thôi!
Còn những người cháy túi
Mang đến cho những kẻ cho vay nặng lãi
Những chiếc quần cộc cuối cùng.

Thật đáng sợ và thật nặng nề
Khi biệt tăm nơi xa vắng!
Nhưng còn khổ hơn khi ở Ukraina
Nhìn thấy hết rồi khóc và im lặng!

Một khi chưa thấy khủng khiếp thế nào
Thì cái ác lại tưởng rằng cái tốt
Từ xa xưa trên đất Ukraina
Sông Đnhép trôi giữa những ngọn đồi
Như đứa con thơ trong bầu sữa mẹ.

Sẽ khoe sắc và sẽ đáng yêu hơn
Khắp Ukraina yêu thương
Những ngôi vườn rợp bóng
Những ngôi làng rộng
Và trong những làng vui
Sẽ vui lên cuộc sống của con người.
Tất cả sẽ là như vậy
Nếu như không còn lại
Dấu vết cường hào trên đất Ukraina.
[1848]

48= І виріс я на чужині

І виріс я на чужині,
І сивію в чужому краї:
То одинокому мені
Здається — кращого немає
Нічого в Бога, як Дніпро
Та наша славная країна...

Аж бачу, там тілько добро,
Де нас нема. В лиху годину
Якось недавно довелось
Мені заїхать в Україну,
У те найкращеє село...
У те, де мати повивала
Мене малого і вночі
На свічку Богу заробляла;
Поклони тяжкії б’ючи,
Пречистій ставила, молила,
Щоб доля добрая любила
Її дитину... Добре, мамо,
Що ти зарані спать лягла,
А то б ти Бога прокляла
За мій талан.

Аж страх погано
У тім хорошому селі.
Чорніше чорної землі
Блукають люди, повсихали
Сади зелені, погнили
Біленькі хати, повалялись,
Стави бур’яном поросли.
Село неначе погоріло,
Неначе люде подуріли,
Німі на панщину ідуть
І діточок своїх ведуть!..
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

І я, заплакавши, назад
Поїхав знову на чужину.
І не в однім отім селі,
А скрізь на славній Україні
Людей у ярма запрягли
Пани лукаві... Гинуть! Гинуть!
У ярмах лицарські сини,
А препоганії пани
Жидам, братам своїм хорошим,
Остатні продають штани...
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Погано дуже, страх погано!
В оцій пустині пропадать.
А ще поганше на Украйні
Дивитись, плакать — і мовчать!

А як не бачиш того лиха,
То скрізь здається любо, тихо,
І на Україні добро.
Меж горами старий Дніпро,
Неначе в молоці дитина,

Красується, любується
На всю Україну.
А понад ним зеленіють
Широкії села,
А у селах у веселих
І люде веселі.
Воно б, може, так і сталось,
Якби не осталось
Сліду панського в Украйні.
[Друга половина 1848, Косарал]
  

49=CHẲNG Đ CHO AI

Chẳng đ cho ai, không vì vinh quang gì cả
Những bài thơ của tôi như những mớ tóc xoăn
Tôi viết ra chúnglà chỉ đ cho mình
Và chỉ thế thôinhững người anh em .

Tôi làm thơ nơi tù ngục
Đ quên đi nỗi buồn
Dường như từ Ukraina xa xăm
Những lời bay đến
Nằm trên trang giấy trắng
Chúng khóc và chúng cười
Như con trẻ, chúng làm cho vui
Tâm hồn bị người đời quên lãng
Tâm hồn bất hạnh. Nhưng mà tôi
Nhưng mà tôi rất vui với chúng.
Như ông bố trong ngôi nhà ấm cúng
Với những đứa con nhỏ của mình
Tôi vui vẻ và tôi hài lòng
Tôi nguyện cầu Thượng Đế
Xin Ngài chớ quên bầy con trẻ
Bầy con trẻ của tôi nơi xa
Và hãy để cho chúng bay về nhà.
Cả một bầy trẻ nhỏ
Kể rằng chúng thật khổ
Thật khó sống trên đời.
Và ở trong gia đình vui
Trẻ con được âu yếm
Và mái đầu bạc óng
Của người bố lắc hoài
Mẹ thốt lên rằng: “Con trẻ
Thà đừng sinh ra trên đời”.
Còn cô gái trẻ lại nghĩ:
“Ta yêu chúng quá đi thôi”.
[1848]

49= Не для людей, тієї слави…

Не для людей, тієї слави,
Мережані та кучеряві
Оці вірші віршую я.
Для себе, братія моя!

Мені легшає в неволі,
Як я їх складаю,
З-за Дніпра мов далекого
Слова прилітають.
І стеляться на папері,
Плачучи, сміючись,
Мов ті діти. І радують
Одиноку душу
Убогую. Любо мені.
Любо мені з ними,
Мов батькові багатому
З дітками малими.
І радий я, і веселий,
І Бога благаю,
Щоб не приспав моїх діток
В далекому краю.
Нехай летять додомоньку
Легенькії діти
Та розкажуть, як то тяжко
Було їм на світі.
І в сім’ї веселій тихо
Дітей привітають,
І сивою головою
Батько покиває.
Мати скаже: бодай тії
Діти не родились.
А дівчина подумає:
Я їх полюбила.
[Друга  половина  1848, Косарал]


Khóc cho những ngày xưa


46=KHI CÓ MỘT MÁI NHÀ

Thật là hay khi có một mái nhà
Mà nhà có mẹ, cô em gái
Thật là hạnh phúc lắm vậy!
Nhưng mà tôi chẳng có bao giờ
Không bao giờ có một cô em gái
Dù cuộc đời vẫn cứ thế đi qua.
…………………………........
Nhưng mà tôi cũng có một lần
nơi xứ lạ, chốn xa xăm
Khóc cho số phận mình nghiệt ngã
Chẳng còn dù chỉ mái nhà tranh!
……………………………....
Chúng tôi rất lâu trên biển lang thang
Rồi về Đa-ri-a thả neo cập bến
Từ làng Vatag người ta mang thư đến
Và tất cả chúng tôi đã đọc thì thầm.
Rồi tôi cùng với người đồng nghiệp đã nằm
Cùng trò chuyện và cùng nhau mơ ước
Tôi nghĩ rằng: ở đâu niềm hạnh phúc
Thư hay mẹ trên đời này có được?
– “Anh có không?” – “Vợ và các con
Và ngôi nhà, bà mẹ, cô em gái!
Còn thư thì không…”
……………………………….
[1848]

46= Добро́, у кого є господа

Добро́, у кого є господа,
А в тій господі є сестра
Чи мати добрая. Добра,
Добра такого таки зроду
У мене, правда, не було,
А так собі якось жилось.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
І довелось колись мені
В чужій далекій стороні
Заплакать, що немає роду,
Нема пристанища, господи!
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ми довго в морі пропадали,
Прийшли в Дар’ю, на якор стали.
З Ватаги письма принесли
І всі тихенько зачитали.
А ми з колегою лягли
Та щось такеє розмовляли.
Я думав, де б того добра,
Письмо чи матір, взять на світі.
— А в тебе єсть? — Жена і діти,
І дом, і мати, і сестра!
А письма нема...
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
[Друга половина 1848, Косарал]
  

47=KHÓC CHO NHỮNG NGÀY XƯA

Giá mà ta sẽ còn gặp lại nhau
Thì em sẽ thế nào, em có sợ?
Có bằng những lời êm ái, ngọt ngào
Em thốt lên bên tai tôi khi đó?

Không. Em sẽ chẳng nhận ra
Mà, có thể, nhớ ra và nói:
Tất cả chỉ là trong một giấc mơ!
Còn tôi sẽ mừng vui trở lại.

Người con gái có đôi mắt đen!
Khi tôi hồi tưởng lại
Về những ngày xưa thân ái
Vui vẻ và cay đắng, xót xa
Thì tôi sẽ khóc oà.

Xin cám ơn điều này không sự thật
Mà chỉ là giấc mơ
Xin rót đầy nước mắt
Khóc cho những ngày xưa!
[1848]

47= Якби зустрілися ми знову

Якби зустрілися ми знову,
Чи ти злякалася б, чи ні?
Якеє тихеє ти слово
Тойді б промовила мені?

Ніякого. І не пізнала б.
А може б, потім нагадала,
Сказавши: «Снилося дурній».
А я зрадів би, моє диво!

Моя ти доле чорнобрива!
Якби побачив, нагадав
Веселеє та молодеє
Колишнє лишенько лихеє.
Я заридав би, заридав!

І помоливсь, що не правдивим,
А сном лукавим розійшлось,
Слізьми-водою розлилось
Колишнєє святеє диво!
[Друга половина 1848, Косарал]