Thứ Tư, 14 tháng 6, 2017

Thơ T. Shevchenko Song Ngữ


9=GỬI N. MARKEVICH

Hỡi con đại bàng xám của tôi ơi
Cây đàn banu-ra thân mến!
Anh có đôi cánh đ mà bay
Anh có thời gian và sức mạnh.
Xin anh hãy bay về Ukraina
Nơi người ta đợi chờ anh và yêu mến
Tôi ao ước được theo anh về
Nhưng mà có ai chào đón?
Tôi cô đơn ở nơi này
Và ở Ukraina cũng thế
Tôi là một kẻ mồ côi
Như ở nơi xứ lạ.
Con tim cô đơn than thở
Tôi cô đơn… mà Ukraina quê hương
Thảo nguyên rộng mênh mông!
Ở đó ngọn gió trên đồng
Như với người thân trò chuyện
Ở đó tự do trên đồng rộng
Ở đó có biển xanh
Ca tụng Chúa và biển rì rầm
Xua đi buồn khổ
Ở đó những ngôi mộ cổ
Chuyện trò với cơn gió ngang tàng
Cơn gió trên thảo nguyên
Mang những lời buồn bã:
“Một thời oanh liệt đã qua
Không còn quay về nữa…”
Giá được nghe và bay như gió
Giá mà tôi được khóc cùng
Chỉ tiếc một điều rằng phận số
Bắt tôi sống giữa những người dưng.
[1840]

9=Н. Маркевичу  

Бандуристе, орле сизий! 
Добре тобі, брате: 
Маєш крила, маєш силу, 
Є коли літати. 
Тепер летиш в Україну — 
Тебе виглядають. 
Полетів би за тобою, 
Та хто привітає. 
Я й тут чужий, одинокий, 
І на Україні 
Я сирота, мій голубе, 
Як і на чужині. 
Чого ж серце б'ється, рветься? 
Я там одинокий. 
Одинокий... а Украйна! 
А степи широкі! 
Там повіє буйнесенький, 
Як брат, заговорить; 
Там в широкім полі воля; 
Там синєє море 
Виграває, хвалить бога, 
Тугу розганяє; 
Там могили з буйним вітром 
В степу розмовляють, 
Розмовляють сумуючи, 
Отака їх мова: 
«Було колись — минулося, 
Не вернеться знову». 
Полетів би, послухав би, 
Заплакав би з ними...
Та ба, доля приборкала 
Меж людьми чужими.

С.-Петербург, 9 мая 1840


10=NHỚ STERNBERG

Đi về chốn xa xôi
Ngắm nhìn bao nhiêu thứ
Nhìn mãi rồi buồn nhớ
Anh hãy nhớ về tôi.
1840
_____
*Vasily Ivanovich Sternberg (1818-1845) – họa sĩ, bạn thân của Taras Shevchenko thời học Học viện Mỹ thuật.

 10=На незабудь Штернбергови

Поїдеш далеко,
Побачиш багато;
Задивишся, зажуришся, —
Згадай мене, брате!
[S. Petersburg 1840]


11=HÃY NGỦ ĐI TIM ƠI

Có điều gì nặng nề, đau đớn thế?
Để con tim nức nở muốn kêu lên.

Thôi đi tim, mi đừng như con trẻ

Điều gì làm mi lo lắng không yên?

Mi đói, rét hay là mi muốn ngủ?
Hãy ngủ đi, im lặng đến muôn đời!
Thôi cứ hãy mặc con người ác quỉ
Nhắm mắt vào và hãy ngủ tim ơi!
13-11-1844

11=Чого мені тяжко, чого мені нудно

Чого мені тяжко, чого мені нудно, 
Чого серце плаче, ридає, кричить, 
Мов дитя голодне? Серце моє трудне, 
Чого ти бажаєш, що в тебе болить?

Чи пити, чи їсти, чи спатоньки хочеш? 
Засни, моє серце, навіки засни, 
Невкрите, розбите,— а люд навісний 
Нехай скаженіє... Закрий, серце, очі.


13 ноября 1844, СПБ


12=GỬI GÔ-GÔN

Một ý nghĩ trước, một theo sau
Một thắt trong tim, một khổ đau
Một đang khóc thầm trong hờn giận
Giữa trái tim này - trời thấy đâu!

Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Biết tìm đâu thấy
Người hiểu và thân ái
Với những dòng này?

Tất cả đều mù, tất cả điếc
Tất cả gục xuống dưới xiềng gông
Bạn cười còn tôi khóc
Hỡi người bạn lớn
Nước mắt có ích gì không?

Chỉ cây cỏ tầm thường
Mới không nghe tiếng khóc
Của quê hương.
Người cha già không giết
Đứa con yêu của mình
Vì tự do, vì danh dự, vinh quang
Của Ukraina yêu dấu.

Không giết mà nuôi
Nuôi Sa hoàng, nuôi cuộc chiến
Rồi gửi đến mà nói rằng
Đây là sự đóng góp của chúng tôi
Cống vật cho ngôi vàng
Dâng cho người ngoại quốc...
Thì biết làm sao được bây giờ
Tôi và bạn sẽ cười và khóc.
30-12-1844

12=Гоголю

За думою дума роєм вилітає, 
Одна давить серце, друга роздирає, 
А третяя тихо, тихесенько плаче 
У самому серці, може, й бог не побачить.

Кому ж її покажу я, 
І хто тую мову 
Привітає, угадає 
Великеє слово?

Всі оглухли – похилились 
В кайданах… байдуже… 
Ти смієшся, а я плачу, 
Великий мій друже. 
А що вродить з того плачу?

Богилова, брате... 
Не заревуть в Україні 
Вольнії гармати. 
Не заріже батько сина, 
Своєї дитини, 
За честь, славу, за братерство, 
За волю Вкраїни.

Не заріже – викохає 
Та й продасть і різницю 
Москалеві. Це б то, бачиш, 
Лепта удовиці 
Престолові-отечеству 
Та німоті плата. 
Нехай, брате. А ми будем 
Сміяться та плакать.


30 декабря 1844,  С.-Петербург


13=ĐỪNG GHEN CHI NGƯỜI GIÀU

Đừng ghen chi người giàu
Người giàu không biết đến
Tình yêu hay lòng kính trọng
Người giàu chỉ mua chúng mà thôi.

Cũng đừng ghen chi kẻ mạnh
Kẻ đó áp bức mọi người
Đừng ghen chi kẻ vinh quang ngời ngời
Bởi chính kẻ này rất biết
Yêu hắn chẳng có ai
Nhưng niềm vinh quang khó nhọc
Hắn giành được bằng nước mắt
Chỉ mua vui cho thiên hạ mà thôi.

Những người trẻ tuổi gặp nhau
Rồi yêu nhau, không bàn cãi
Ngỡ thiên đường nhưng nhìn vào sẽ thấy
Đang cựa mình nỗi khổ đau...
Hãy đừng ghen với một người nào
Mà hãy nhìn ra thế giới:
Trên mặt đất chẳng có thiên đường
Và cả trên trời cũng vậy!
4-10-1845

13= Не завидуй багатому 

Не завидуй багатому: 
Багатий не знає 
Ні приязні, ні любові — 
Він все те наймає.

Не завидуй могучому, 
Бо той заставляє. 
Не завидуй і славному: 
Славний добре знає, 
Що не його люди люблять, 
А ту тяжку славу, 
Що він тяжкими сльозами
Вилив на забаву.

А молоді як зійдуться, 
Та любо, та тихо,
Як у раї,— а дивишся:
Ворушиться лихо. 
Не завидуй же нікому,
Дивись кругом себе: 
Нема раю на всій землі, 
Та нема й на небі.

4 октября 1845, Миргород



14=BỨC THƯ GỬI NHỮNG ĐỒNG BÀO

CỦA TÔI, NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT, NHỮNG NGƯỜI ĐANG SỐNG VÀ NHỮNG NGƯỜI CHƯA SINH RA TRÊN ĐẤT UKRAINA CŨNG  NHƯ 

Ở NƯỚC NGOÀI


Ai nói rằng: “Ta yêu Đức Chúa Trời,
mà lại ghét anh em mình thì kẻ đó nói dối".
(Tân Ước_Thư thứ nhất của Giăng: 4-20)
  
(Trích)
Đêm dần buông
Trời tranh tối, tranh sáng
Mọi người sau công việc nhọc nhằn
Tất cả đều thiếp ngủ.
Chỉ mình tôi ngồi khóc như người nguyền rủa
Đêm cũng như ngày
Chốn ngã ba đông người
Nhưng không ai nhìn thấy
Nước mắt của tôi
Họ không nghe, không biết
Rằng người ta bán đứng sự thật
Đem xiềng gông đổi lấy xiềng gông

Người ta cười chế nhạo trời xanh
Người ta đặt ách áp bức
Gây nên những đau thương tang tóc
Và gieo rắc tai hoạ cho con người
Điều gì sẽ xảy ra? Xin chờ đó
Rồi các anh sẽ thấy ngay thôi!

Xin hãy nhớ ra, hãy hồi tỉnh lại
Những con người ngây dại mất trí khôn!
Hãy nhìn về chốn thiên đường
Nhìn về Ukraina quê mẹ
Hãy yêu Người bằng trái tim chân thật
Dù quê hương chỉ là đống tro tàn!
Hãy đứng dậy, hãy vứt bỏ xiềng gông
Hỡi những người anh em đang đâu đó
Chốn quê người xin đừng tìm gì cả
Mà tìm chẳng thấy đâu
Cả bầu trời ở trên đầu
Hay dưới cánh đồng xứ khác
Chỉ trong nhà mình - có sự thật
Và sức mạnh, ý chí, tự do.

Không ở đâu còn có Ukraina
Không ở đâu có sông Đnhép khác
Thế mà các anh cứ hướng về phương xa
Để tìm kiếm cho mình niềm hạnh phúc.
Hạnh phúc thánh thần là tự do, tự do!
Và tình đoàn kết anh em! Nếu tìm thấy
Hãy mang nó từ phương xa
Hãy đem về Ukraina.
Những lời to tát ở đây không thiếu
Tất cả đều ở đây.
Còn các anh nói với mọi người
Rằng trời sinh các anh ra chẳng để làm gì cả
Để các anh không nghe theo điều dối trá
Hãy nhớ rằng cha ông ra sao thì các anh 
cũng sẽ thế mà thôi.

......................................................
………………………………..
………………………………..


Phải thấu hiểu vinh quang của tổ tiên
Của cha anh
Và đừng tự dối mình
Hãy học hỏi và hãy đọc
Hãy biết học cái hay người khác
Và nhận biết cái của mình
Mẹ của mình ai bỏ quên
Thì người đó bị ông trời trừng trị
Và những đứa con người đó
Sẽ không cho người đó bước vào nhà
Những người lạ cũng tránh xa.
Người nào ác độc
Sẽ không tìm thấy trên mặt đất
Nhà cửa và sự chào mời
Thật đau đớn cho tôi
Chỉ đi nhớ về những ngày buồn tủi
Và đau khổ của cha ông
Tôi biết làm sao để quên?
Dù tôi muốn quên khuấy
Một nửa cuộc đời
Vinh quang là thế đấy
Vinh quang Ukraina của tôi.
Các anh hãy đọc xem
Để không ngủ mà mơ thấy tất tần tật

Những điều không sự thật
Và để những nấm mồ
Được mở ra trước mắt.
Để các anh hỏi những người khốn khổ:
Ai, ở đâu và họ chết vì sao?
Hãy coi những người anh em thiểu số
Như anh em ruột thịt của mình
Hãy để cho người mẹ của các anh
Được mỉm cười lần đầu tiên trong thế kỉ!
Để mẹ ôm những đứa con của mẹ
Bằng cánh tay chắc nịch của mình
Và mẹ hôn những đứa con
Bằng đôi môi tự do và độc lập
Để quên đi điều khổ nhục
Từ nhiều thế kỉ đã xa
Cho sống dậy niềm vinh quang khác
Vinh quang của Ukraina
Và để cho ánh sáng
Lặng lẽ chiếu khắp nơi
Hãy ôm nhau, hỡi những người anh em của tôi ơi
Tôi van xin và tôi cầu khẩn!
14-12-1845


14=І мертвим, і живим, 
і ненарожденним землякам моїм 
в Украйні і не в Украйні 
моє дружнєє посланіє

Аще кто речет, яко люблю бога, 
а брата своего ненавидит, 
ложь есть.

Соборно[е] послание Иоанна. Глава 4, с.20

І смеркає, і світає, 
День божий минає, 
І знову люд потомлений 
І все спочиває. 
Тілько я, мов окаянний, 
І день і ніч плачу 
На розпуттях велелюдних, 
І ніхто не бачить, 
І не бачить, і не знає 
Оглухли, не чують; 
Кайданами міняються, 
Правдою торгують.

І господа зневажають, 
Людей запрягають 
В тяжкі ярма. Орють лихо, 
Лихом засівають, 
А що вродить? побачите, 
Які будуть жнива!

Схамениться, недолюди, 
Діти юродиві! 
Подивиться на рай тихий,
На свою країну, 
Полюбіте щирим серцем
Велику руїну, 
Розкуйтеся, братайтеся! 

У чужому краю 
Не шукайте, не питайте 
Того, що немає 
І на небі, а не тілько 
На чужому полі. 
В своїй хаті своя й правда,
І сила, і воля.

Нема на світі України, 
Немає другого Дніпра, 
А ви претеся на чужину 
Шукати доброго добра, 
Добра святого. Волі! волі! 
Братерства братнього! Найшли, 
Несли, несли з чужого поля 
І в Україну принесли 
Великих слов велику силу 
Та й більш нічого. Кричите, 
Що бог вас создав не на те, 
Щоб ви неправді поклонились!.. 
І хилитесь, як і хилились! 
. ………………………..

…………………………

…………………………



Живу славу дідів своїх 
І батьків лукавих. 
Не дуріте самі себе, 
Учітесь, читайте, 
І чужому научайтесь, 
Й свого не цурайтесь. 
Бо хто матір забуває, 
Того бог карає, 
Того діти цураються, 
В хату не пускають. 
Чужі люди проганяють, 
І немає злому 
На всій землі безконечній 
Веселого дому. 
Я ридаю, як згадаю 

Діла незабуті 
Дідів наших. Тіжкі діла! 
Якби їх забути, 
Я оддав би веселого 
Віку половину. 
Отака-то наша слава, 
Слава України. 
Отак і ви прочитай[те], 
Щоб не сонним снились 

Всі неправди, щоб розкрились 
Високі могили 
Перед вашими очима, 
Щоб ви розпитали 
Мучеників, кого, коли, 
За що розпинали! 
Обніміте ж, брати мої,
Найменшого брата – 
Нехай мати усміхнеться,
Заплакана мати. 
Благословіть дітей своїх 
Твердими руками 
І діточок поцілує 
Вольними устами. 
І забудеться срамотня 
Давняя година, 
І оживе добра слава, 
Слава України, 
І світ ясний, невечерній 
Тихо засіяє… 
Обніміться ж, брати мої, 
Молю вас, благаю!

14 декабря 1845, Вьюнища

Thơ Shevchenko song ngữ


15;16;17;18;19;20.PHỎNG THEO NHỮNG BẢN THÁNH CA CỦA VUA DAVID

1.
Người ngoan đạo
Không nghe lời khuyên kẻ ác
Không bước vào con đường tội ác
Như với đồng đất khô cằn.

Mà theo qui luật trời xanh
Linh hồn và ý chí
Sẽ đấu tranh để trở thành
Cánh đồng tươi tốt
Và trên mặt nước
Cây sẽ tươi xanh.
Tất cả đều kết trái, đâm hoa
Con người cũng chín
Từ những người láu lỉnh
Dấu vết sẽ không còn
Sẽ như tro bụi
Gió cuốn trên thế gian.
Và từ những nấm mồ
Người ác không cùng người ngoan sống lại
Nhưng những việc tốt sẽ hồi sinh lại
Còn những việc xấu sẽ chết đi.

 Псалми Давидові

15= 1.
Блаженний муж на лукаву 
Не вступає раду, 
І не стане на путь злого, 
І з лютим не сяде.

А в законі господньому 
Серце його й воля 
Навчається; і стане він — 
Як на добрім полі 
Над водою посаджене 
Древо зеленіє, 
Плодом вкрите. Так і муж той 
В добрі своїм спіє. 
А лукавих, нечестивих 
І слід пропадає,— 
Як той попіл, над землею 
Вітер розмахає, 
І не встануть з праведними 
Злії з домовини. 
Діла добрих обновляться, 
Діла злих загинуть.



12.
Ôi Thượng đế của tôi
Người quên tôi muôn đời?
Người nhìn đi nơi khác
Người từ giã tôi?
Tôi sẽ hành hạ linh hồn
Trong đớn đau, khó nhọc
Và kẻ thù độc ác
Đang ngó nhìn tôi rồi cười
Hãy cứu linh hồn
Và con tim đang sống
Xin đừng nói như tên láu lỉnh:
“Ta đã vượt qua”.
Giờ tất cả kẻ thù
Đang cười tôi ngã xuống
Vào tay chúng. Hãy cứu tôi
Khỏi đau khổ chết người
Hãy cứu tôi, tôi xin cầu nguyện
Và sẽ ngợi ca
Ơn huệ kia bằng con tim thật thà
Bằng bản Thánh ca dịu êm và mới.

16= 12.
Чи ти мене, боже милий, 

Навік забуваєш, 
Одвертаєш лице своє, 
Мене покидаєш? 
Доки буду мучить душу 
І серцем боліти? 
Доки буде ворог лютий 
На мене дивитись 
І сміятись! Спаси мене, 
Спаси мою душу, 
Да не скаже хитрий ворог: 
«Я його подужав». 
І всі злії посміються, 
Як упаду в руки, 
В руки вражі. Спаси мене 
Од лютої муки, 
Спаси мене,— помолюся 
І воспою знову 
Твої блага чистим серцем, 
Псалмом тихим, новим.

  


43.
Chúng tôi đã từng nghe
Về vinh quang của Ngài.
Ông bà chúng tôi kể lại
Rằng Ngài vô cùng dữ dội
Rằng từ thế kỷ xa xăm
Bằng bàn tay của mình
Ngài tạo nên những bàn tay
Rồi ngài phủ lên mặt đất này
Xác của quân thù hung dữ
Và những đứa con của Ngài
Ca tụng ngài, vì họ
Được sống trong thanh bình, đầy đủ
Thế mà giờ đây
Ngài lại phủ lên những đứa con của Ngài
Những điều sỉ nhục
Và kẻ thù ác độc
Xua đuổi chúng tôi vào cái chết
Như xua những con cừu
Ngài trao chúng tôi
Vào tay quân thù nguyền rủa
Rồi Ngài từ giã
Mặc cho thiên hạ chê cười

Ngài đi vào câu chuyện cười
Cho những người gàn dở.
Người ta lắc đầu
Và cười nhạo chúng tôi
Ngày lại qua ngày
Chúng tôi sống trong xấu hổ
Rồi chết trong xiềng gông
Trong dối lừa, khó nhọc.
Chúng tôi không cầu Chúa khác
Mà chỉ cầu xin Ngài:
“Hãy cứu chúng tôi
Khỏi bàn tay kẻ thù ác độc
Hãy đánh cho kẻ thù tan tác
Rồi nữa, đánh thêm
Cho thật mạnh hơn
Xin Ngài hãy rũ bỏ
Hết nước mắt, đắng cay
Xin hãy cứu những linh hồn này
Và xin Ngài hãy giúp
Cho chúng tôi nổi dậy chống chuyên quyền.

17= 43.
Боже, нашими ушима 

Чули твою славу, 
І діди нам розказують 
Про давні кроваві 
Тії літа; як рукою 
Твердою своєю 
Розв'язав ти наші руки 
І покрив землею 
Трупи ворогів. І силу 
Твою восхвалили 
Твої люде, і в покої, 
В добрі одпочили, 
Славя господа!.. А нині 
Покрив єси знову 
Срамотою свої люде, 
І вороги нові 
Розкрадають, як овець, нас 
І жеруть! Без плати 
І без ціни оддав єси 
Ворогам проклятим; 
Покинув нас на сміх людям, 
В наругу сусідам,
Покинув нас, яко в притчу 
Нерозумним людям. 
І кивають, сміючися, 
На нас головами; 
І всякий день перед нами — 
Стид наш перед нами. 
Окрадені, замучені, 
В путах умираєм, 
Чужим богам не молимось, 
А тебе благаєм: 
«Поможи нам, ізбави нас 
Вражої наруги. 
Поборов ти першу силу, 
Побори ж і другу, 
Ще лютішу!.. Встань же, боже, 
Вскую' будеш спати, 
Од сліз наших одвертатись, 
Скорби забувати! 
Смирилася душа наша, 
Жить тяжко в оковах! 
Встань же, боже, поможи нам 
Встать на ката знову».

  

52.
Kẻ dại dột bằng lời mình
Chối từ Thượng Đế
Khi không còn pháp chế
Hắn không biết hạnh phúc của mình
Còn Thượng Đế ngước mắt nhìn:
Liệu có còn Thượng Đế bao dung, độ lượng?
Không còn Đấng Tối cao thần thánh
Không có con tim thánh thần!
Khi mà những kẻ đầy tội lỗi kia lại sáng mắt nhìn
Và chúng ăn thịt người thay cho bánh
Chúng chẳng hề có lòng tin.
Ơ nơi người ta biết sợ sệt
Thì tai hoạ sẽ không còn
Chứ ở đây quân xảo quyệt
Chỉ biết sợ chính mình.
Liệu có ai ra tay cứu vớt
Ai trả về cho chúng tôi sự thật?
Thượng Đế có khi nào giúp đỡ được không
Thì hãy ra tay phá bỏ xiềng gông
Chúng tôi sẽ ca tụng Ngài, Thượng Đế
Bằng mọi hơi thở của mình
Niềm vui sẽ về với xứ Israel
Và Ngài Jacob kia thần thánh.

 18= 52.
Пребезумний в серці скаже, 

Що бога немає, 
В беззаконії мерзіє, 
Не творить благая. 
А бог дивиться, чи є ще 
Взискающий бога? 
Нема добро творящого, 
Нема ні одного! 
Коли вони, неситії, 
Гріхами дознають? 
Їдять люде замість хліба, 
Бога не згадають, 
Там бояться, лякаються, 
Де страху й не буде. 
Так самі себе бояться 
Лукавії люде. 
Хто ж пошле нам спасеніє, 
Верне добру долю? 
Колись бог нам верне волю, 
Розіб'є неволю. 
Восхвалимо тебе, боже, 
Хваленієм всяким; 
Возрадується Ізраїль 
І святий Іаков.


53.
Xin Ngài hãy cứu con
Phán xét con theo ý mình.
Con cầu xin Thượng Đế
Bằng những lời từ miệng của mình.
Có một thế lực đen
Đang giẫm đạp hồn con
Nó không hề nhìn thấy
Ngài và điều gì đang xảy.
Còn Ngài giúp đỡ con
Và bảo vệ con
Khỏi lũ người ác độc
Trả về cho con sự thật
Con cầu nguyện Ngài, ôi Thượng Đế của con
Bằng cả trái tim cô đơn
Và con nhìn vào cái ác
Bằng đôi mắt không ác của mình.

19= 53.
Боже, спаси, суди мене
Ти по своїй волі. 
Молюсь: господи, внуши їм 
Уст моїх глаголи, 
Бо на душу мою встали 
Сильнії чужії, 
Не зрять бога над собою, 
Не знають, що діють. 
А бог мені помагає, 
Мене заступає 
І їм правдою своєю 
Вертає їх злая. 
Помолюся господеві 
Серцем одиноким 
І на злих моїх погляну 
Незлим моїм оком.

  

149.
Bản Thánh ca mới này
Chúng con đồng thanh ca tụng Ngài
Bằng con tim chân thật
Chúng con nhìn vào sách và hát
Ngợi ca niềm vinh quang mới
Rằng Chúa Trời trừng trị người có tội
Và giúp đỡ những người ngoan
Đấng khả kính trong sự vinh quang
Và trong nhà thờ yên lặng
Cùng vui vẻ hát lên
Ca tụng một cái tên Chúa Trời
Rồi những thanh gươm thần thánh
Được đặt vào những bàn tay
Để trừng trị những ai phản trắc
Và những người theo khoa học
Còn những ông vua tàn ác
Hãy xích chúng vào xiềng gông
Chúng, những kẻ nổi danh
Hãy dùng xích buộc lại
Và xét tội những tên tác quái
Bằng phiên toà chính nghĩa của mình
Để đến muôn đời sự vinh quang
Dành cho những người khả kính.
19-12-1845

 20= 149.
Псалом новий господові 
І новую славу 
Воспоєм честнйм собором, 
Серцем нелукавим; 
Во псалтирі і тимпані 
Воспоєм благая, 
Яко бог кара неправих, 
Правим помагає. 
Преподобнії во славі 
І на тихих ложах 
Радуються, славословлять, 
Хвалять ім'я боже; 
І мечі в руках їх добрі, 
Гострі обоюду, 
На отмщеніє язикам 
І в науку людям. 
Окують царей неситих 
В залізнії пута, 
І їх, славних, оковами 
Ручними скрутять, 
І осудять губителей 
Судом своїм правим, 
І вовіки стане слава, 
Преподобним слава.

19 декабря 1845, Вьюниіца


21=GỬI MARIANA BÉ BỎNG

Hãy lớn lên con chim nhỏ thơ ngây
Bông hoa anh túc chưa nở
Hãy nở ra trong một ngày
Con tim chưa tan vỡ.

Khi người ta chưa đến
Thung lũng lặng yên
Còn khi người ta đến
Họ sẽ giết chết em.

Chẳng tháng năm tuổi trẻ
Với sắc đẹp tuyệt vời
Chẳng đôi mắt màu cánh gián
Nước mắt đầy vơi.

Chẳng trái tim thiếu nữ
Thuỳ mị, dịu hiền
Đều không cứu em khỏi
Những ánh mắt cuồng điên.

Người ta sẽ giết em
Ném em xuống vực
Và em sẽ chết
Chỉ biết nguyền rủa ông trời.

Đừng đẹp xinh bông hoa nhỏ của tôi
Bông hoa bên ngoài chưa nở
Hãy tàn úa cho nhanh, trong một ngày
Con tim còn chưa tan vỡ.
20-12-1845

 21= Маленькій Мар'яні 

Рости, рости, моя пташко, 
Мій маковий цвіте, 
Розвивайся, поки твоє 
Серце не розбите,

Поки люди не дознали 
Тихої долини, 
Дознаються – пограються, 
Засушать та й кинуть.

Ані літа молодії, 
Повиті красою, 
Ні карії оченята, 
Умиті сльозою,

Ані серце твоє тихе, 
Добреє дівоче 
Не заступить, не закриє 
Неситії очі.

Найдуть злії та й окрадуть
І тебе, убогу, 
Кинуть в пекло… Замучишся 
І прокленеш бога.

Не цвіти ж, мій цвіте новий, 
Нерозвитий цвіте, 
Зов'янь тихо, поки твоє 
Серце не розбите.

20 декабря 1845, Вьюнища


22=NGÀY TRÔI ĐI

Ngày trôi đi, đêm cũng trôi đi
Mùa hè đi qua. Lá vàng xào xạc
Những đôi mắt đã khép
Cả con tim và suy nghĩ ngủ yên
Tất cả ngủ yên...
Tôi không biết được mình đang sống
Hay là đang vất vưởng
Vì tôi không khóc mà cũng chẳng cười.

Ngươi ở đâu, số phận của tôi?
Tôi buồn về ngươi đấy!
Nếu tốt lành trời tiếc chẳng cho
Xin hãy cho tôi đen đủi vậy!
Nhưng đừng cho ngủ người đang đi
Ngủ rồi không thức dậy
Và như khúc gỗ mục ven đường
Vứt đầy khắp mọi lối
Hãy cho tôi được sống bằng tất cả trái tim
Để yêu thương con người
Và đừng để cho thù hận
Thiêu trụi thế giới này.

Thật khủng khiếp khi sống lắt lay
Rồi chết trong tù hãm
Nhưng thật vô cùng khiếp đảm
Ngủ quên trong ý chí
Rồi chết đi mà không đ
Chút dấu vết cho đời
Và những người đã sống
Đã không tìm ra câu trả lời!
Ngươi ở đâu, số phận của tôi?
Tôi buồn về ngươi đấy!
Nếu tốt lành trời tiếc chẳng cho
Xin hãy cho tôi đen đủi vậy!
21-12-1845

 22=Минають дні, минають ночі 

Минають дні, минають ночі, 

Минає літо, шелестить 
Пожовкле листя, гаснуть очі, 
Заснули думи, серце спить, 
І все заснуло, і не знаю, 
Чи я живу, чи доживаю, 
Чи так по світу волочусь, 
Бо вже не плачу й не сміюсь…


Доле, де ти! Доле, де ти? 

Нема ніякої, 
Коли доброї жаль, боже, 
То дай злої, злої! 
Не дай спати ходячому, 
Серцем замирати 
І гнилою колодою 
По світу валятись. 
А дай жити, серцем жити 
І людей любити, 
А коли ні… то проклинать 
І світ запалити!


Страшно впасти у кайдани, 
Умирать в неволі, 
А ще гірше – спати, спати 
І спати на волі, 
І заснути навік-віки, 
І сліду не кинуть 
Ніякого, однаково, 
Чи жив, чи загинув! 
Доле, де ти, доле, де ти? 
Нема ніякої! 
Коли доброї жаль, боже, 
То дай злої! злої!

21 декабря 1845, Вьюнища


23=LỜI DI CHÚC

Khi tôi chết xin hãy chôn
Trên đất Ukraina yêu thương.
Xin hãy đào mộ
Giữa thảo nguyên rộng mênh mông
Để tôi được nằm giữa đồi mộ cổ
Bên trên con sông
Đ được nghe tiếng gầm réo
Của sông Đnhép chuyển dòng.
Và khi từ những cánh đồng
Máu của quân thù đáng ghét
Bị cuốn phăng
Thì khi đó
Tôi bước ra từ ngôi mộ
Tôi bước lên đạt đến ngưỡng thánh thần.
Và tôi sẽ nguyện cầu
Chứ bây giờ tôi chẳng biết có Chúa trời đâu.
Xin hãy giấu đi rồi đứng dậy
Gông cùm xin bẻ gãy
Và máu quân thù
Hãy tưới bằng khí phách hiên ngang
Còn về tôi trong Đại gia đình
Đại gia đình tự do và mới.
Xin hãy đừng quên nhắc tới
Một lời tốt đẹp thì thầm.
25-12-1845

23= Заповіт 

Як умру, то поховайте 

Мене на могилі, 
Серед степу широкого, 
На Вкраїні милій, 
Щоб лани широкополі, 
І Дніпро, і кручі 
Було видно, було чути, 
Як реве ревучий. 
Як понесе з України 
У синєє море 
Кров ворожу... отойді я 
І лани, і гори — 
Все покину і полину 
До самого бога 
Молитися... а до того 
Я не знаю бога. 
Поховайте та вставайте, 
Кайдани порвіте 
І вражою злою кров'ю 
Волю окропіте. 
І мене в сем'ї великій, 
В сем'ї вольній, новій, 
Не забудьте пом'янути 
Незлим тихим словом.

25 декабря 1845, в Переяславі